1114
1195
4314
61101
46973
7439881
Một buổi sáng mùa thu năm 2025, tôi tìm đến nhà ông Tôn Tích Hợp, nguyên cán bộ Cục thuế Nghệ An để tìm hiểu về thân thế và cuộc đời hoạt động cách mạng của hai cụ thân sinh ông: cụ Tôn Gia Tinh và bà Nguyễn Thị Khương - hai chiến sĩ cách mạng kiên trung trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh.
Với nụ cười hiền hậu, mái tóc bạc phơ, ở tuổi ngoài 70, giọng ông vẫn ấm, đôi mắt sáng và tràn đầy niềm tự hào khi kể về cha mẹ mình: “Cha tôi là người ít nói, nhưng sống mẫu mực và kỷ luật. Mẹ tôi thì thương con, tần tảo và là một cơ sở cách mạng rất vững vàng. Cả đời ông bà sống giản dị, không cầu danh lợi – chỉ mong đất nước yên bình, nhân dân ấm no…”.
Sinh ngày 25-11-1911 tại xã Võ Liệt, Thanh Chương (Nghệ An), Tôn Gia Tinh (bí danh là Mệnh) lớn lên trong một gia đình hiếu học, yêu nước. Cha ông là Tôn Quang Sinh, đậu Tú tài Hán học nhưng chọn sống giản dị, đi dạy học, bốc thuốc chữa bệnh và tích cực tham gia phong trào Đông Du - do chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu khởi xướng. Mẹ ông, bà Nguyễn Thị Định, là người phụ nữ hiền hậu, chăm lo gia đình nhưng luôn truyền cảm hứng yêu nước cho con cái.
Năm 1920, cậu học trò Tôn Gia Tinh vào theo học tại Trường Quốc Học Vinh. Dưới sự dẫn dắt của thầy Trần Phú, Hà Huy Tập,... ông tham gia phong trào học sinh yêu nước, ký tên kiến nghị trả tự do cho Phan Bội Châu, tổ chức truy điệu Phan Chu Trinh… những dấu mốc sớm dẫn dắt ông vào con đường cách mạng.
Cuối năm 1927, Tôn Gia Tinh gia nhập Việt Nam Cách mạng Đồng chí Hội (tháng 7/1928 đổi tên thành Tân Việt Cách mạng Đảng hay Đảng Tân Việt) và tham hoạt động trong các phong trào đấu tranh thanh niên, vận động kết nạp thêm đảng viên. Năm 1929, ông bị thực dân bắt, kết án tù nhưng vẫn kiên cường giữ vững lập trường cách mạng. Sau mấy tháng bị giam cầm, tra tấn dã man, tháng 3-1930, Tôn Gia Tinh được trả tự do và tiếp tục hoạt động tích cực trong phong trào cách mạng của quê hương.
Ngày 20/3/1930, Hội nghị đại biểu các chi bộ Cộng sản Thanh Chương được tổ chức, Tôn Gia Tinh được bầu làm Bí thư lâm thời Huyện ủy Thanh Chương. Ngay sau đó, ông đã thay mặt Huyện ủy về thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam làng Dương Xuân. Nhờ hoạt động tích cực của đồng chí Tôn Gia Tinh cùng các đồng chí trong Huyện bộ, chỉ sau hơn 1 tháng, Đảng bộ huyện Thanh Chương đã phát triển thêm được 7 chi bộ với 55 đảng viên.
Ngoài nhiệm vụ phát triển cơ sở Đảng tại địa phương, tháng 4-1930, ông tiếp tục nhận nhiệm vụ của Xứ ủy Trung Kỳ về Hưng Nguyên thành lập Chi bộ Trúc - Lam – Giang.

Hình ảnh đồng chí Tôn Gia Tinh - Bí thư lâm thời Huyện ủy Thanh Chương.
Tiếp đó, ông đã lãnh đạo các cuộc biểu tình ngày 1-5 và ngày 1-6-1930, với sự tham gia của hàng ngàn người để đưa yêu sách lên tri huyện đánh dấu bước phát triển mới của phong trào cách mạng ở Thanh Chương. Trong chuyến xuống Vinh lấy ý kiến chỉ đạo, ông bị bắt. Thực dân Pháp và tay sai đã chuyển giam ông ở nhiều nơi, dùng nhục hình, đòn roi nhưng không khai thác được manh mối gì. Sau hơn 1 năm giam cầm tra tấn, không khai thác được gì thêm, ông bị kết án 9 tháng tù theo Bản án số 88 ngày 14/8/1931 của Tòa án Nam triều tỉnh Nghệ An. Trong tù, bất chấp nhục hình, tra tấn, Tôn Gia Tinh vẫn hăng hái tham gia vào phong trào đấu tranh chống chế độ lao tù hà khắc, vận động anh em, bạn tù giữ vững khí tiết chiến đấu. Đầu năm 1933, sau khi ra tù, Tôn Gia Tinh cùng với các bạn tù là đồng chí Trần Hậu Toàn, Tôn Quang Phiệt đã bắt liên lạc với tổ chức để tiếp tục hoạt động cách mạng. Ông được tổ chức tin tưởng giao nhiệm vụ vào Đà Nẵng, liên lạc với đồng chí Nguyễn Sơn Trà để củng cố cơ sở và tham gia đấu tranh giành chính quyền tại Đà Nẵng năm 1945. Sau đó, ông tiếp tục tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong hoạt động công tác xã hội tại quê hương Nghệ An.
Với những đóng góp to lớn, đồng chí Tôn Gia Tinh vinh dự được Nhà nước trao Huân chương độc lập hạng Ba, Kháng chiến chống Pháp hạng Nhất, Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất và nhiều phần thưởng cao quý khác.
Bà Nguyễn Thị Khương sinh năm 1912 tại huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Thời học sinh, bà đã chịu ảnh hưởng của anh rể là Hà Huy Tập. Bà tham gia nhóm học trò trí thức, trở thành tổ trưởng liên lạc cho Đảng Tân Việt, hoạt động tuyên truyền, vận động nữ sinh và phụ nữ địa phương tham gia cách mạng.
Năm 1928, bà chính thức được kết nạp vào Đảng Tân Việt (bí danh La Loa, sau đó đổi thành Hương khi là đảng viên Cộng sản). Bà đảm nhận vai trò ấn loát, liên lạc tại thị xã Hà Tĩnh, khéo léo vận động hỗ trợ cách mạng, liên kết đường dây với các cán bộ nhà lao và tổ chức ở các vùng lân cận. Trong giai đoạn cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh, bà cùng đội ngũ “nữ chiến sĩ thép” đã gánh vác những công việc nguy hiểm trong phong trào như liên lạc, ấn loát, vận động phong trào đấu tranh,...

Đồng chí Nguyễn Thị Khương - Bông hồng thép của phong trào cách mạng Hà Tĩnh.
Câu chuyện về “bông hồng thép” được ông Hợp kể với giọng nghẹn ngào, chứa đựng sự kính trọng sâu sắc: “Mẹ tôi là người rất kiên cường, bà từng bị bắt vào năm 1931 khi phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh bị đàn áp dã man. Mẹ tôi bị giam giữ và tra tấn tại Nhà lao Hà Tĩnh, nhưng không khai báo bất cứ điều gì, giữ trọn khí tiết của người chiến sĩ cách mạng.”
Những ngày trong tù không làm bà khuất phục mà càng hun đúc thêm ý chí sắt đá. Dù hoàn cảnh cực kỳ khắc nghiệt, bà vẫn luôn giữ vững niềm tin vào sự thắng lợi của cách mạng và vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
Tình yêu của hai người chiến sĩ cộng sản
Sau khi ra tù, Nguyễn Thị Khương tiếp tục hoạt động Hội Phụ nữ tại thị xã Hà Tĩnh. Năm 1935, được các bạn tù chính trị giới thiệu và vun vén, Nguyễn Thị Khương xây dựng gia đình, kết duyên cùng đồng chí Tôn Gia Tinh cũng vừa mới ra tù, quê ở xã Võ Liệt, huyện Thanh Chương. Gia đình và dòng họ Tôn có truyền thống yêu nước và khoa bảng. Sau ngày cưới, theo yêu cầu của Xứ ủy Trung Kỳ, hai đồng chí Tôn Gia Tinh và Nguyễn Thị Khương vào Đà Nẵng hoạt động. Nhà ở của vợ chồng Nguyễn Thị Khương là nơi đi về của các đồng chí Tôn Quang Phiệt, Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp và nhiều đồng chí khác trong thời kỳ hoạt động bí mật.

Đồng Chí Tôn Gia Tinh và đồng chí Nguyễn Thị Khương hoạt động tại Đà Nẵng năm 1935.
Vợ chồng đồng chí Nguyễn Thị Khương sinh được năm người con (hai trai, ba gái). Học tập và noi gương tinh thần yêu nước và hiếu học của cha mẹ, cả năm người con đều là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ đều là những cán bộ lãnh đạo ở các cơ quan chính quyền Nhà nước và những nhà khoa học có đức có tài, suốt đời tận tụy phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân.
Câu chuyện về hai người chiến sĩ cộng sản đã đi qua biết bao thử thách ấy không chỉ là câu chuyện về những sự kiện lịch sử, mà còn là minh chứng cho tình yêu thương sâu sắc, sự hy sinh thầm lặng và ý chí bất diệt của những con người bình dị nhưng phi thường.
Ông Hợp chia sẻ, bố mẹ ông chưa từng có nhiều của cải vật chất, những gì họ để lại cho con cháu là niềm tin mãnh liệt vào lý tưởng cách mạng, vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập tự do cho dân tộc. “Tài sản quý giá nhất của gia đình tôi chính là tinh thần kiên trung, sự cống hiến không mệt mỏi của bố mẹ cho sự nghiệp chung của đất nước,” ông nói.

Cán bộ Bảo tàng Nghệ An - Xô Viết Nghệ Tĩnh
trò chuyện với ông Tôn Tích Hợp tại nhà riêng phường Vinh Phú tỉnh Nghệ An.
Ông Hợp còn nhớ rõ những lần được nghe cha mẹ kể chuyện hoạt động cách mạng, những lần cha mẹ dạy dỗ về lòng yêu nước, sự cần cù và trách nhiệm của mỗi người đối với cộng đồng. Những bài học đó đã trở thành kim chỉ nam cho cuộc đời ông và các thế hệ sau.
Kết thúc buổi trò chuyện, ông Hợp đưa tôi đến bàn thờ tổ tiên trên đó có di ảnh hai cụ, với nụ cười hiền hậu, ánh mắt như dõi theo từng bước đi của thế hệ sau. Ông xúc động nói: “Tôi luôn tự nhủ mình phải sống sao cho xứng đáng với cha mẹ. Họ không để lại tiền bạc, chức tước - chỉ để lại một gia tài lớn nhất: nhân cách, niềm tin và lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với nhân dân.”
Câu nói của ông khiến tôi lặng đi hồi lâu. Ra về, lòng tôi ấm lên bởi một điều giản dị nhưng sâu sắc: Trong từng ngôi làng, từng mái nhà Việt Nam, vẫn còn đó những câu chuyện như gia đình cụ Tôn Gia Tinh và cụ Nguyễn Thị Khương – những người đã lặng thầm góp phần viết nên trang sử vàng của quê hương, đất nước bằng chính cuộc đời mình./.