Phan Bội Châu với thanh niên, Thanh niên với Phan Bội Châu

Tác giả: admin
Ngày 2017-12-11 03:32:10

 

Phan Bội Châu là một trong những nhà yêu nước lớn ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Ông sinh ngày 26 tháng 12 năm 1867, tại làng Đan Nhiễm ( nay là xã Xuân Hòa), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình nhà nho.  Cha ông là Phan Văn Phổ, mẹ là Nguyễn Thị Nhàn, được thừa hưởng nguồn kiến thức Nho học uyên bác từ người cha, một thầy đồ có danh tiếng ở xứ Nghệ. Từ bé ông đã nổi tiếng thông minh, 6 tuổi học 3 ngày thuộc hết “Tam Tự Kinh”, 7 tuổi ông đã đọc hiểu sách “Luận Ngữ”, 13 tuổi ông thi đỗ đầu huyện.

Phan Bội Châu vốn tên là Phan Văn San,vì chữ “San” trùng với tên húy vua Duy Tân (Vĩnh San) nên phải đổi thành Phan Bội Châu. Ông có hiệu là Hải Thụ, về sau đổi là Sào Nam. Phan Bội Châu còn có nhiều biệt hiệu và bút danh khác như Thị Hán, Phan Giải San, Sào Nam Tử, Hạo Sinh, Hiếu Hán…

Thuở thiếu thời, ông đã sớm có lòng yêu nước. Năm 17 tuổi, ông viết bài "Hịch Bình Tây Thu Bắc" đem dán ở cây đa đầu làng để hưởng ứng việc Bắc Kỳ khởi nghĩa kháng Pháp. Năm 19 tuổi, ông cùng bạn là Trần Văn Lương lập đội "Sĩ tử Cần Vương" (hơn 60 người) chống Pháp, nhưng bị địch khủng bố nên phải giải tán.

Mặc dù tài năng, tài hoa, nhưng con đường thi cử của Phan Bội Châu lận đận so với các bạn bè đồng trang lứa ở cùng quê. Một lần, sau khi thi trượt, ông vào Huế, kinh đô của nước Việt Nam dưới triều Nguyễn. Ông đã tham dự kì thi thơ ở Huế dưới sự chủ tọa của Tế tửu Quốc Tử Giám Khiếu Năng Tĩnh. Bài thơ Bái thạch vi huynh (Lạy đá làm anh) đã bộc lộ rõ chí làm trai và tinh thần yêu nước của Phan Bội Châu. Ông được Khiếu Năng Tĩnh để ý tới sau sự kiện này. Bằng sự nỗ lực của mình, Phan Bội Châu cuối cùng đã thi đỗ Giải nguyên để thỏa niềm đam mê đèn sách. Tuy nhiên, sau khi đỗ đạt Phan Bội Châu không làm quan để hưởng vinh hoa, phú quý như nhiều người khác. Ông đi khắp trong Nam, ngoài Bắc liên kết với các văn thân, sĩ phu cả nước cùng nhau đồng tâm, hiệp lực chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp. Đỗ đạt cao, không ra làm quan và tinh thần yêu nước dạt dào làm cho danh tiếng của Phan Bội Châu lan tỏa khắp cả nước.

Trong cuộc đời hoạt động yêu nước, chống Pháp sôi nổi của mình, Phan Bội Châu luôn chú trọng đến thanh niên, coi thanh niên là một lực lượng cách mạng đặc biệt quan trọng. Ngược lại thanh niên Việt Nam thủa đó cũng dành những tình cảm đặc biệt cho Phan Bội Châu. Họ tích cực ủng hộ, hưởng ứng và tham gia những hoạt động yêu nước, chống Pháp do Phan Bội Châu khởi xướng, tiêu biểu như phong trào Đông Du (1905 - 1909) và tổ chức Việt Nam Quang phục Hội (1912 - 1917). Khi Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt năm 1925, thì tầng lớp thanh niên, với lực lượng chủ công là học sinh, sinh viên, trí thức đã tích cực xuống đường đấu tranh đòi chính quyền thực dân ở Việt Nam phải trả tự do cho nhà yêu nước Phan Bội Châu. Kết quả là thực dân Pháp buộc phải giảm án từ tử hình xuống chung thân khổ sai, sau đó đưa ông về an trí ở Huế cho đến khi ông qua đời (năm 1940).    

1. Phan Bội Châu với thanh niên.

Năm 1884, Phan Bội Châu đã hưởng ứng các hoạt động yêu nước, chống Pháp của các văn thân, sĩ phu quê nhà bằng bài “Hịch đánh Tây”. Nhất là sau khi đỗ Giải nguyên, Phan Bội Châu bôn ba khắp nước Việt Nam kết giao với các nhà yêu nước thời bấy giờ như: Phan Chu TrinhHuỳnh Thúc KhángTrần Quý CápNguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Hàm (tức Tiểu La Nguyễn Thành), Đặng Nguyên CẩnNgô Đức KếĐặng Thái ThânHồ Sĩ KiệnLê HuânNguyễn QuyềnVõ HoànhLê Đại,...

Năm 1905, ông cùng Đặng Tử Kính và Tăng Bạt Hổ sang Trung Quốc rồi sang Nhật Bản, để cầu viện Nhật giúp Duy Tân hội đánh đuổi Pháp. Tại Nhật, ông gặp Lương Khải Siêu, một nhà cách mạng người Trung Quốc, và được khuyên là nên dùng thơ văn (nghe lời Phan Bội Châu viết Việt Nam vong quốc sử) để thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam. Lại nghe hai nhân vật quan trọng của Đảng Tiến Bộ đang cầm quyền ở Nhật Bản, là Ōkuma Shigenobu (Bá tước Ôi Trọng Tín) và Thủ tướng Inukai Tsuyoshi (Khuyển Dưỡng Nghị) khuyên là nên cổ động thanh niên ra nước ngoài học tập để sau này về giúp nước.

Tháng 8/1905, Phan Bội Châu về nước để tổ chức vận động thanh niên xuất dương. Tại Nghệ Tĩnh ông đã kết giao với Lê Văn Huân (Giải Huân) ở Ngu Lâm (Đức Thọ), Trần Sĩ Dực ở Đan Hải (Nghi Xuân), Hoàng Minh Kha ở Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu), và Vương Thúc Oánh ở Nam Đàn... nhằm vận động thanh niên ra nước ngoài học tập để mai sau cứu nước. Thế hệ Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Phạm Hồng Thái, Hoàng Ngọc Ân, Trương Vân Lĩnh…lần lượt xuất dương qua Trại Cày của Đặng Thúc Hứa ở Xiêm rồi từ đó sang Trung Quốc hoạt động.

Với sự dẫn dắt của Phan Bội Châu đã làm nên một làn sóng nô nức ra đi tìm đường cứu nước và chính họ là nòng cốt của tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng  chí Hội sau này.

Hầu hết các thanh niên du học sinh sang Nhật Bản được Phan Bội Châu gửi vào học tại trường Đồng Văn thư viện, chỉ có vài ba người được gửi vào học tại trường Chấn Võ học hiệu. Các du h ọc sinh ở Nhật Bản đều gắng sức học tập mong thành tài để về cứu dân, cứu nước. Phan Bội Châu luôn ân cần chăm sóc các du học sinh, bởi họ là những người trẻ tuổi, giàu lòng yêu nước, nhưng sống cảnh xa nhà trên đất khách quê người nên không khỏi có những bỡ ngỡ và khó khăn.

Năm 1906, Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh có cuộc gặp gỡ tại Nhật Bản. Sự phát triển của nước Nhật Bản trên con đường Âu hóa đã giúp hai nhà yêu nước Việt Nam được mở rộng tầm mắt. Tuy nhiên, hai người đi theo hai khuynh hướng khác nhau. Phan Châu Trinh cho rằng Việt Nam chưa đủ lực chống Pháp bằng con đường bạo lực, nên cần tiến hành các hoạt động khai dân trí, chấn dân khí, duy tân để làm cho dân cường, nước thịnh. Trong khi đó Phan Bội Châu quyết tâm đi theo con đường bạo lực cách mạng. Phan Châu Trinh chủ trương chống phong kiến, thực hành chế độ dân chủ, thì Phan Bội Châu chủ trương chống Pháp, giải phóng dân tộc. Mặc dù con đường đi của hai nhà yêu nước này khác nhau (Phan Châu Trinh – ôn hòa và Phan Bội Châu – bạo động), nhưng họ không bài xích nhau, mà tương trợ cho nhau. Ở trong nước, Phan Châu Trinh lãnh đạo phong trào Duy Tân; ở Nhật Bản Phan Bội Châu lãnh đạo phong trào Đông Du. Hai phong trào này không phát triển biệt lập mà có sự tương hỗ lẫn nhau, bởi có chung một động lực là tinh thần yêu nước. Cả hai phong trào này có một điểm chung là lôi cuốn được sự tham gia đông đảo của tầng lớp thanh niên trong cả nước.

Phan Bội Châu sang Nhật Bản với mục đích là cầu viện chính phủ Nhật Bản, một nước đồng chủng, đồng văn ở châu Á, giúp Việt Nam đánh đuổi thực dân Pháp. Sau khi tiếp xúc với giới cầm quyền của Nhật Bản, Phan Bội Châu nhận thấy không thể cậy nhờ sự giúp đỡ của Chính phủ Nhật Bản. Một số chính khách Nhật Bản khuyên ông chuyển từ cầu viện sang cầu học. Năm 1906, Phan Bội Châu và những nhà nho có tư tưởng tiến bộ đã phát động phong trào Đông Du trên phạm vi cả nước. Một số trung tâm xuất dương lớn là Hà Nội, Thái Bình - Nam Định, Nghệ An - Hà Tĩnh, và Sài Gòn. Các nhà nho cấp tiến, nhà khá giả, giàu có đã tích cực quyên góp tiền của để ủng hộ phong trào Đông Du. Đã có gần 200 thanh niên (số thanh niên Bắc Kỳ và Trung Kỳ khoảng gần 100 người, Nam Kỳ gần 100 người) đã rời Việt Nam sang Nhật Bản du học theo lời kêu gọi thống thiết, ngập tràn tinh thần yêu nước của Phan Bội Châu.

Năm 1907, Phan Bội Châu thành lập Việt Nam Cống Hiến Hội, một phong trào với sự tham gia của hơn 100 học sinh du học ở Nhật. Việc này có ý nghĩa tượng trưng vì những học sinh có được cơ hội để cộng tác với nhau với tư cách là những người Việt, (không phải người Bắc Kì, Nam Kì hay Trung Kì mà người Pháp đã cố tình chia ra). Tuy nhiên, dưới áp lực của chính phủ Pháp, Nhật Bản đã trục xuất họ trong năm sau.

Năm 1909, Phan Bội Châu rời Nhật Bản đến Trung Quốc. Nhiều du học sinh từ Nhật Bản đến Trung Quốc theo Phan Bội Châu. Năm 1912, Phan Bội Châu và các đồng chí của ông đã thành lập tổ chức yêu nước mới là Việt Nam Quang phục Hội. Biết tin này, nhiều thanh niên yêu nước rời Việt Nam đến Trung Quốc để gia nhập tổ chức. Phan Bội Châu trọng dụng những thanh niên từng tham gia phong trào Đông Du cử họ nắm giữ những chức vụ quan trọng trong tổ chức Việt Nam Quang phục Hội. Năm 1913, thực dân Pháp cử người đến Quảng Đông "mặc cả" với Tổng đốc Long Tế Quang yêu cầu bắt Phan Bội Châu và các yếu nhân của hội. Ngày 24 tháng 12 năm 1913, Phan Bội Châu bị bắt. Nhưng nhờ Nguyễn Thượng Hiền lúc bấy giờ đang ở Bắc Kinh vận động, nên Long Tế Quang không thể giao nộp ông cho Pháp, mà chỉ đưa giam vào nhà tù Quảng Đông, mãi đến tháng 2 năm 1917, ông mới được giải thoát. Mặc dù bị giam giữ, nhưng sức hút của Phan Bội Châu với thanh niên còn rất lớn.

Ngày 30 tháng 6 năm 1925, ông bị thực dân Pháp bắt cóc tại Thượng Hải rồi bí mật đưa về nước để thủ tiêu nhưng trước phong trào đấu tranh của nhân dân cả nước đòi thả Phan Bội Châu, và nhờ sự can thiệp của Toàn quyền Varenne, ông bị thực dân Pháp kết án chung thân khổ sai và đưa về an trí tại Huế. Trong những ngày sống ở Huế, Phan Bội Châu vẫn một nỗi niềm đau đáu về sự nghiệp cứu nước chưa thành. Thế hệ những nhà nho cấp tiến phất cao ngọn cờ yêu nước của ông bị thực dân Pháp đàn áp dữ dội. Người thì bị xử chém trên pháp trường, người bị đày ải nơi xứ người, người chịu cảnh tù đày. Tuy nhiên, thế hệ Phan Bội Châu đã kịp gieo khát vọng và ý chí đấu tranh giải phóng dân tộc vào trong lòng thế hệ trẻ. Vì vậy, trong những ngày sống ở Huế, ông luôn đặt niềm tin và sự kỳ vọng vào thế hệ trẻ.

Đầu xuân 1927, học sinh trường Quốc học và trường Nhà dòng Huế đến mừng thọ 60 tuổi của Phan Bội Châu. Trong lời đáp từ của nhà chí sĩ, có bài thơ "Bài ca chúc Tết thanh niên". Báo "Tân thế kỉ" số ra ngày 3-2-1927 đã giới thiệu toàn văn bài thơ. Viết theo thể hát nói đôi khổ, giọng thơ vừa bồi hồi tha thiết, vừa mạnh mẽ hùng hổn, bài ca đã động viên và khích lệ thanh niên lên đường cứu nước. “Bài ca chúc Tết thanh niên” là những lời tâm huyết của Phan Bội Châu gửi gắm đến thế hệ thanh niên, thanh niên phải “xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ”. 

2. Thanh niên với Phan Bội Châu

Phan Bội Châu là thần tượng của tầng lớp thanh niên Việt Nam đầu thế kỷ XX. Họ tin vào tấm lòng yêu nước trong sáng, tinh thần chống Pháp cứu nước sục sôi của Phan Bội Châu. Họ hết lòng theo Phan Bội Châu trong phong trào Đông Du và tích cực gia nhập tổ chức Việt Nam Quang phục Hội. Mọi hoạt động yêu nước của Phan Bội Châu đều được thanh niên dõi theo, hưởng ứng và hâm mộ.

Ông viết nhiều tác phẩm có tác động lớn với sĩ phu trong nước như “Việt Nam vong quốc sử”, “Đề tỉnh quốc dân hồn”,  “Hải ngoại huyết thư”…. Các tác phẩm của ông đã tạo nên một làn sóng mới thúc đẩy nhiều thanh niên yêu nước tham gia phong trào Đông Du, ra nước ngoài học tập để tìm đường chống Pháp.

Phong trào Đông Du đang diễn tiến tốt đẹp thì Pháp và Nhật Bản đã câu kết với nhau. Pháp hứa hẹn nhường cho Nhật Bản một số quyền lợi ở Đông Dương, trong khi đó Nhật Bản hứa sẽ trục xuất các du học sinh Việt Nam về nước. Năm 1908, Chính phủ Nhật Bản bắt đầu trục xuất các du học sinh Việt Nam. Nhưng một số khá đông thanh niên đã không chịu về nước. Họ tìm mọi cách ở lại Nhật Bản, sẵn sàng chấp nhận khổ công học tập, ăn đói, mặc rét, trốn tránh sự truy lùng của cảnh sát Nhật Bản, kiên trì sát cánh cùng Phan Bội Châu.

Năm 1912, ảnh hưởng của cuộc Cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Quốc của Tôn Dật Tiên, Phan Bội Châu cùng một số nhà cách mạng quốc gia Việt Nam lưu vong tại Quảng Châu thành lập tổ chức Việt Nam Quang phục Hội thay thế cho Hội Duy Tân. Tôn chỉ của tổ chức Việt Nam Quang phục Hội là đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi đất nước, khôi phục chủ quyền của Việt Nam, và thành lập "Việt Nam Cộng hòa Dân quốc". Trong thời điểm này, Phan Bội Châu đã thay đổi chính kiến của ông về thể chế quân chủ. Tuy nhiên, ông vẫn duy trì Kỳ Ngoại Hầu Cường Để trong vai trò chủ tịch chính phủ lâm thời Việt Nam Quang Phục Hội. Nhằm gây tiếng vang, tạo ủng hộ của quần chúng trong nước, năm 1913 ông chủ trương dùng bạo động cách mạng, cho tổ chức ám sát và đặt chất nổ phá hoại nhiều nơi trong nước. Chính quyền Pháp đã nhờ chính quyền Trung Quốc bắt giam Phan Bội Châu cùng các đồng chí. 

Trong thời gian từ 1921 đến 1924, sự kiện Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), liên minh Quốc - Cộng tại Trung Quốc... đã có ảnh hưởng lớn đến Phan Bội Châu. Ông tìm hiểu về cuộc Cách mạng Tháng Mười, và viết báo tôn vinh VI. Lênin. Giữa năm 1924, phỏng theo Trung Quốc dân đảng của Tôn Trung Sơn, ông đã cải tổ Việt Nam Quang phục hội thành Việt Nam Quốc dân đảng. 

Ngày 30 tháng 6 năm 1925, Phan Bội Châu bị mật thám Pháp bắt cóc ở Trung Quốc. Sau đó chúng bí mật áp giải ông về nước để thủ tiêu. Tuy nhiên, kế hoạch bị bại lộ. Phan Bội Châu chưa về đến Việt Nam thì báo giới trong nước đã loan tin ông đang trên đường về nước. Học sinh, sinh viên chăm chú dõi theo mọi tin tức về ông. Không thể bưng bít thông tin, thực dân Pháp đưa ông ra xét xử công khai tại Tòa đề hình ở Hà Nội. Ngày xét xử Phan Bội Châu, đông đảo có các tầng lớp nhân dân, trong đó đông nhất là học sinh, sinh viên, trí thức đến tham dự phiên tòa. Tòa đề hình Hà Nội đã kết án tử hình Phan Bội Châu vì những hoạt động chống đối chính quyền thực dân ở Đông Dương.

Bản án này đã gây lên một làn sóng công phẫn trong cả nước, đặc biệt là tầng lớp thanh niên, học sinh, sinh viên, bởi Phan Bội Châu là một biểu tượng yêu nước thời bấy giờ. Nhiều học sinh, sinh viên phản kháng lại bản án bằng cách bãi khóa. Họ vận động các tầng lớp nhân dân cùng xuống đường đấu tranh. Có thể nói ở đâu có trường học ở đó có phong trào đấu tranh đòi chính quyền ân xá Phan Bội Châu.

Vụ án Phan Bội Châu làm cho tình hình chính trị ở Việt Nam trở nên nóng bỏng hơn lúc nào hết. Thực dân Pháp buộc phải tiến hành xét xử lại vụ án Phan Bội Châu nhằm xoa dịu tinh thần phản kháng của dân chúng. Nhân cơ hội này, học sinh, sinh viên cả nước đã tích cực vận động nhân dân đấu tranh để gây áp lực với chính quyền.

Ngày xét xử lại vụ án Phan Bội Châu ở Tòa đề hình Hà Nội, hàng nghìn người dân, trong đó đông đảo nhất là học sinh, sinh viên tới dự phiên tòa. Mọi người xúc động khi lắng nghe những lời bào chữa của Phan Bội Châu tại tòa. Ông cho rằng yêu nước không phải là một tội. Tú tài Nguyễn Khắc Doanh từ Nam Định lên tham dự phiên tòa đã xin được chết thay cho Phan Bội Châu. Hành động quả cảm đầy bất ngờ này làm cho mọi người tham dự phiên tòa hết sức thán phục. Trước sự phản đối của quần chúng, thực dân Pháp đã giảm từ án tử hình xuống chung thân khổ sai. Như vậy là Phan Bội Châu đã thoát khỏi án tử nhờ có sự đấu tranh của nhân dân, mà công đầu thuộc về học sinh, sinh viên. Một lần nữa, để xoa dịu dư luận thực dân Pháp đã đưa Phan Bội Châu về an trí tại Huế.

Trong thời gian sống ở Huế, nhất là trong thời gian đầu, đông đảo học sinh, sinh viên đến thăm Phan Bội Châu, ủng hộ ông cả về tinh thần và vật chất. Phan Bội Châu tiếp tục truyền cảm hứng yêu nước cho thanh niên trong thời gian ông sống ở Huế.

Nhìn chung, Phan Bội Châu là người biết phát huy sức mạnh của thanh niên trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Ông luôn chăm sóc thanh niên, bồi đắp lòng yêu nước, chí căm thù ngoại xâm và quyết tâm đấu tranh xóa bỏ ách nô lệ cho dân tộc. Ông là người có công thức tỉnh một thế hệ thanh niên Việt Nam yêu nước, chuẩn bị nguồn nhân lực cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam đầu thế kỷ XX. Nhiều thanh niên theo ông xuất dương ra nước ngoài du học, theo ông tham gia các hoạt động chống Pháp đã trở thành những nhà yêu nước, cách mạng có danh tiếng ở Việt Nam. Ngược lại, thanh niên Việt Nam tôn sùng ông là thần tượng. Họ hăng hái theo ông đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc. Họ luôn kề vai, sát cánh cùng ông trong những lúc ông gặp khó khăn. Họ tiếp tục thắp lên ngọn lửa yêu nước mà ông đã trao truyền cho họ./.
Nguyễn Văn Bích – Bảo tàng XVNT 

Video