698
1584
3828
27114
62919
7447851
Đồng chí Ngô Phú Vân (còn có các tên khác là Phú, Chắt Em, Châu Em Mâu) sinh năm 1909 tại xã Phú Điền, tổng Vân Viên, phủ Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An[1] (nay là xã Lam Thành, tỉnh Nghệ An). Đồng chí sinh ra trong một gia đình giáo chức, thân phụ là ông Ngô Khắc Thức, một nhà giáo dạy chữ Hán tại Trường Tiểu học Pháp – Việt huyện Nghi Lộc và thân mẫu là bà Nguyễn Thị Tam.

Được thừa hưởng nền nếp gia phong và sự giáo dục của gia đình, lại sớm phải chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, Nhân dân lầm than dưới "một cổ hai tròng", Ngô Phú Vân sớm hình thành lòng yêu nước và ý thức dân tộc sâu sắc. Năm 1925, một bước ngoặt quan trọng đã đến khi đồng chí ra Vinh làm phụ bếp cho hiệu buôn Thụy Thành. Thành phố Vinh lúc bấy giờ là một trung tâm chính trị, kinh tế của thực dân Pháp ở Trung Kỳ, nơi có sự phân hóa xã hội sâu sắc nhưng cũng là nơi các luồng tư tưởng yêu nước, cách mạng mới đang âm thầm lan tỏa.
Tại đây, đồng chí đã gặp gỡ và chịu ảnh hưởng sâu sắc từ người gia sư tên là Phạm Văn Đàn, một thành viên của tổ chức cách mạng. Qua những câu chuyện đầy nhiệt huyết của Phạm Văn Đàn về các cuộc đấu tranh sôi nổi đòi ân xá cho chí sĩ Phan Bội Châu hay lễ truy điệu nhà yêu nước Phan Chu Trinh do Hội Phục Việt lãnh đạo, những khái niệm về dân tộc, độc lập, tự do đã thực sự thấm sâu vào tâm trí Ngô Phú Vân. Ngọn lửa yêu nước trong lòng đồng chí được thắp sáng, thôi thúc đồng chí phải hành động. Đồng chí đã nhận thức rõ ràng rằng, con đường duy nhất để giải phóng dân tộc không thể là con đường cải lương, thỏa hiệp, mà phải là con đường đấu tranh cách mạng triệt để giành lấy độc lập, tự do cho dân tộc và hạnh phúc của nhân dân.
Quá trình hoạt động và thử thách đã chứng minh lòng trung thành và nhiệt huyết của người thanh niên Ngô Phú Vân. Năm 1929, đồng chí đã tham gia rải truyền đơn kêu gọi Nhân dân đấu tranh ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930), đồng chí Ngô Phú Vân đã tích cực tham gia phong trào cách mạng tại Hưng Nguyên như: rải truyền đơn, treo cờ đỏ búa liềm tại các địa điểm đông người như chợ Tràng, Chợ Đón, chợ Vực, chợ Liễu....[2]
Với những đóng góp tích cực và sự giác ngộ sâu sắc, tháng 8/1930, đồng chí Ngô Phú Vân đã vinh dự được kết nạp vào Đảng.[3] Đây là niềm tự hào lớn lao, một bước ngoặt trong cuộc đời cách mạng của đồng chí, đánh dấu sự dấn thân hoàn toàn cho lý tưởng giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Trong những năm tháng hoạt động đầy gian khổ và hiểm nguy, chính ngôi nhà thờ họ Ngô Đại tôn, nơi thờ phụng các bậc tiền nhân đã trở thành một cơ sở cách mạng bí mật, nơi che chở, ẩn nấp cho đồng chí và nhiều đảng viên khác như Ngô Bá Bưởi, Ngô Đoán, Ngô Phú Em,...
Khí thế cách mạng ở Hưng Nguyên ngày càng sục sôi và lên đến đỉnh điểm vào ngày 12/9/1930. Từ 3 giờ sáng, hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, Nhân dân các làng Phú Điền, Vệ Chính cùng các làng xã lân cận đã tập hợp thành một đoàn biểu tình với trên 1000 người tại ga Yên Xuân. Dưới lá cờ đỏ búa liềm, với giáo mác, gậy gộc trong tay, đoàn người hô vang các khẩu hiệu "Đả đảo đế quốc Pháp! Đánh đổ Nam Triều phong kiến! Bỏ sưu giảm thuế chia ruộng đất" và rầm rập tiến về phủ lỵ Hưng Nguyên. Đồng chí Ngô Phú Vân là một trong những người tích cực, đi trong hàng ngũ của đoàn biểu tình, góp phần tạo nên khí thế ngút trời của cuộc đấu tranh.
Hoảng sợ trước sức mạnh của quần chúng, thực dân Pháp và tay sai đã lộ rõ bộ mặt tàn bạo. Sau khi dùng lính bắn vào đoàn biểu tình nhưng không giải tán được, chúng đã thực hiện một hành động vô nhân đạo: cho máy bay ném bom thẳng vào giữa đám đông, gây ra một cuộc thảm sát đẫm máu làm 217 người chết và 125 người bị thương. Cuộc biểu tình bị dìm trong biển máu, nhưng ngọn lửa căm thù và ý chí đấu tranh của Nhân dân không những không bị dập tắt mà còn bùng cháy dữ dội hơn, thúc đẩy sự ra đời của chính quyền Xô viết ở các làng xã. Sau cuộc thảm sát, đồng chí Ngô Phú Vân và các đảng viên còn lại phải tạm lánh đi nơi khác để bảo toàn lực lượng, chuẩn bị cho một giai đoạn đấu tranh mới.
Tháng 10/1930, đồng chí Ngô Phú Vân đến Vinh, sử dụng vỏ bọc là một người "bồi bếp" cho một người Tàu tên là Xương Thành để tiếp tục hoạt động bí mật. Nhờ vậy, đồng chí đã trà trộn vào giới lao động, nắm bắt tình hình và gây dựng cơ sở mà không bị địch chú ý. Tại đây, đồng chí được Đảng giao nhiệm vụ phụ trách công tác tổ chức của "Chi bộ Bồi bếp khách” và đã giác ngộ, kết nạp thêm được 3 đảng viên mới[4], góp phần củng cố và phát triển tổ chức Đảng trong giai cấp công nhân.
Tuy nhiên, trước sự lớn mạnh của phong trào cách mạng, thực dân Pháp đã tiến hành một đợt khủng bố trắng vô cùng tàn khốc. Tháng 8/1931, nhiều cán bộ, đảng viên sa vào tay giặc, đồng chí Ngô Phú Vân cũng bị địch bắt. Ngày 29/10/1931, Tòa án Nam triều tỉnh Nghệ An đã kết án đồng chí 3 năm tù giam và 2 năm quản thúc (bản án số 152).[5]
Tháng 02/1933, sau khi mãn hạn tù và bị áp giải về quê nhà để quản thúc, những năm tháng tù đày khắc nghiệt không những không làm lung lay ý chí của người chiến sĩ cộng sản mà còn tôi luyện thêm bản lĩnh kiên cường cho đồng chí. Vừa hết hạn quản thúc, đồng chí lại tiếp tục lao vào hoạt động cách mạng không một chút do dự.
Khi Chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp cử phái đoàn Gô-đa sang điều tra tình hình Đông Dương vào tháng 2/1937, nắm bắt thời cơ chính trị, đồng chí cùng các đồng chí Hoàng Đôn, Hồ Bưởi lại được giao nhiệm vụ chuẩn bị băng cờ, biểu ngữ, vận động Nhân dân tham gia mít tinh đòi các quyền dân sinh, dân chủ. Với uy tín và năng lực của mình, trong giai đoạn này, đồng chí Ngô Phú Vân được tín nhiệm bầu làm Phó Bí thư Thị ủy lâm thời thị xã Vinh[6]. Từ năm 1938 đến giữa năm 1939, đồng chí lại tích cực vận động các hội ái hữu ở Vinh giúp đỡ các đồng chí Nguyễn Thị Nhuận và Trần Thị Liên mở xưởng dệt và tổ chức "Gánh hàng ngày Xuân" để buôn bán, gây quỹ cho Đảng hoạt động, đồng thời tham gia hoạt động trong tổ chức Đảng Cộng sản ở Vinh có tên là "Ban Canh gác đêm".[7] Những hoạt động này cho thấy sự tận tụy, bền bỉ và sáng tạo của đồng chí trong mọi hoàn cảnh.
Năm 1941, trước sự vây lùng gắt gao của mật thám, chi bộ Đường phố tạm ngưng hoạt động, nhiều đảng viên bị bắt. Ngày 13/8/1941, kẻ địch đã ập đến khám xét nhà và bắt đồng chí Ngô Phú Vân lần thứ hai với lý do gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương thuộc chi bộ Công nhân tư gia.
Tháng 11/1941, Tòa án Nam triều tỉnh Nghệ An đã kết án đồng chí mức án: 10 năm tù khổ sai và 10 năm quản thúc (bản án số 297 ngày 18/11/1941).[8] Trong địa ngục trần gian của nhà tù đế quốc, đồng chí phải chịu đựng mọi hình thức tra tấn dã man cả về thể xác lẫn tinh thần. Nhưng với khí phách của một người cộng sản được tôi luyện trong đấu tranh, đồng chí vẫn một lòng kiên trung, giữ vững ý chí chiến đấu, không một lời khai báo, bảo vệ an toàn cho tổ chức và đồng đội.
Do những trận tra tấn tàn bạo và điều kiện giam cầm khắc nghiệt, sức khỏe của đồng chí suy kiệt dần. Ngày 27/10/1942 (Âm lịch), đồng chí Ngô Phú Vân đã anh dũng hy sinh tại nhà lao, khi tuổi đời còn rất trẻ, mới 33 tuổi. Đồng chí đã sống một cuộc đời trọn vẹn, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng vì độc lập, tự do của dân tộc. Đồng chí đã tiếp nối một cách xuất sắc truyền thống yêu nước của quê hương và khí phách kiên trung của dòng họ, tô thắm thêm trang sử vàng của Đảng bộ tỉnh Nghệ An và của cả dân tộc. Đồng chí đã được công nhận là liệt sỹ và được Thủ tướng Chính phủ cấp bằng Tổ quốc ghi công.

Cuộc đời và sự nghiệp của đồng chí Ngô Phú Vân mãi là tấm gương sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, về lòng trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc và Nhân dân, để các thế hệ hôm nay và mai sau mãi mãi học tập và noi theo./.
[1] Theo Công văn số 39/A93-P4 của Cục Hồ sơ nghiệp vụ An ninh – Bộ Công an (ký ngày 19/6/2014, do Đại tá Nguyễn Thanh Sơn ký).
[2] Theo Lý lịch di tích Lịch sử cấp tỉnh Nhà thờ họ Ngô đại tôn.
[3] Theo Công văn số 39/A93-P4 của Cục Hồ sơ nghiệp vụ An ninh – Bộ Công an.
[4] Theo Công văn số 39/A93-P4 của Cục Hồ sơ nghiệp vụ An ninh – Bộ Công an.
[5] Theo Công văn số 39/A93-P4 của Cục Hồ sơ nghiệp vụ An ninh – Bộ Công an.
[6] Theo Bằng Tổ quốc ghi công số 209/TTg cấp ngày 20/11/2013.
[7] Theo Công văn số 39/A93-P4 của Cục Hồ sơ nghiệp vụ An ninh – Bộ Công an.
[8] Theo Công văn số 39/A93-P4 của Cục Hồ sơ nghiệp vụ An ninh – Bộ Công an.