Đồng chí Lê Hồng Phong – tấm gương cộng sản kiên cường tại Nhà tù Côn Đảo

Tác giả: admin
Ngày 2018-04-03 01:02:15

Nhắc đến nhà tù Côn Đảo là chúng ta nhắc đến “địa ngục trần gian”, nơi đã từng chứng kiến tinh thần, nghị lực phi thường, sự hy sinh anh dũng của biết bao người con ưu tú của cách mạng Việt Nam nói chung, Nghệ Tĩnh nói riêng trong đó có đồng chí Lê Hồng Phong. Những ngày cuối cùng trong cuộc đời đồng chí Lê Hồng Phong gắn liền với di tích lịch sử này, nơi đá và máu đã hòa làm một để dựng nên những tượng đài bất tử của cách mạng Việt Nam.

Sau nhiều năm học tập, huấn luyện và hoạt động ở nước ngoài, tháng 11/1937, đồng chí Lê Hồng Phong về nước hoạt động với thẻ căn cước lấy tên là La Anh, trong vai một thương nhân Trung Quốc giàu có. Trong thời gian ở Sài Gòn lợi dụng vỏ bọc thương nhân ấy, được sự giúp đỡ của Trung ương Đảng, Xứ ủy Nam Kỳ, Thành ủy Sài Gòn – Chợ Lớn cùng bà con cô bác, đồng chí Lê Hồng Phong cùng các đồng chí trong Ban chấp hành Trung ương khẩn trương củng cố tổ chức Đảng và tăng cường lực lượng cách mạng.

Ngày 22/6/1939, đồng chí Lê Hồng Phong bị mật thám bắt. Biết Lê Hồng Phong tức Lê Huy Doãn, tức Litsvinop, nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, Ủy viên Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản nên bọn mật thám đã dùng mọi thủ đoạn tra tấn, dụ dỗ nhưng đồng chí nhất quyết không khai. Sau một thời gian giam cầm tra khảo, cuối cùng ngày 30/6/1939 vì không có chứng cứ gì buộc tội, Tòa Tiểu hình Sài Gòn đã kết án đồng chí 6 tháng tù giam và 3 năm cấm cư trú vì tội “sử dụng thẻ căn cước mang tên người khác”. Đồng chí Lê Hồng Phong kiên quyết kháng án nhưng Tòa Thượng thẩm Sài Gòn họp ngày 29/8/1939 đã phê chuẩn y án và giam đồng chí Lê Hồng Phong tại nhà tù Sài Gòn.

Ngày 23/12/1939, hết hạn tù giam, đồng chí Lê Hồng Phong được thả tự do nhưng ngay lập tức bị trục xuất khỏi Nam Kỳ. Đồng chí buộc phải rời Sài Gòn về nơi chôn rau cắt rốn của mình ở làng Đông Thôn, tổng Thông Lạng, Hưng Nguyên, Nghệ An. Tại quê nhà, vượt qua mọi sự kiểm soát, cấm đoán, đồng chí vẫn tiếp tục hoạt động cách mạng.

Trước chính sách đàn áp khốc liệt phong trào cách mạng Đông Dương nhằm thủ tiêu mọi quyền lợi và thành quả mà nhân dân Đông Dương đã giành được trong thời kỳ Mặt trận dân chủ, ngày 29/9/1939 Trung ương Đảng gửi Thông cáo cho các cấp bộ Đảng kêu gọi cán bộ, đảng viên nhanh chóng rút vào hoạt động bí mật. Lo sợ Lê Hồng Phong trốn thoát, tiếp tục hoạt động lãnh đạo cách mạng, chính quyền thực dân Pháp tiếp tục bắt giam đồng chí lần thứ hai ngày 20/1/1940. Không có chứng cớ để buộc tội Lê Hồng Phong dính vào chủ trương tổ chức cuộc khởi nghĩa lật đổ chính quyền thực dân Pháp ở Nam Kỳ, Tòa tiểu hình Sài Gòn của Đế quốc Pháp đã kết án đồng chí 5 năm tù giam, 10 năm quản thúc với lời buộc tội là chịu trách nhiệm tinh thần đối với cuộc khởi nghĩa ấy. Cuối năm 1940, Lê Hồng Phong bị đày ra giam ở nhà tù Côn Đảo.

Tại Côn Đảo, đồng chí Lê Hồng Phong đã sống những ngày anh dũng, bất khuất, nêu cao khí tiết của người cộng sản. Sau khởi nghĩa Nam Kỳ, đế quốc Pháp đày ra Côn Đảo số tù nhân nhiều chưa từng thấy (năm 1940 là 2.452 người; năm 1941 là 4.860 người). Mỗi khám nhốt từ 250 đến 300 người. Đây là thời kỳ dã man, tàn bạo nhất trong lịch sử nhà tù Côn Đảo. Lớp tù nhân lúc bầy giờ hầu hết bị cấm cố ở Banh II và Banh III. Lê Hồng Phong bị giam tại xà lim Sở Muối, trên con đường từ thị trấn đi ra mũi Cá Mập, cách trung tâm thị trấn khoảng 1km với mục đích cô lập đồng chí với tổ chức tù chính trị tại Côn Đảo. Tuy nhiên dù bị giam ở khu vực nào, qua hệ thống cơ sở tù chính trị làm khổ sai và bồi bếp, tổ chức Đảng ở Côn Đảo vẫn liên lạc được với đồng chí Lê Hồng Phong.

Thực dân Pháp ở Nam Kỳ đã chỉ thị cho bọn chúa đảo phải hãm hại đồng chí Lê Hồng Phong. Bọn cai ngục đã áp dụng một chế độ lao tù hà khắc bất chấp cả luật pháp đối với tù nhân. Chúng tự ý thay án tù câu lưu, một hình thức tù giam đối với tù chính trị bằng nhốt đồng chí vào xà lim cấm cố. Hàng ngày Lê Hồng Phong bị đánh đập hết sức dã man bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu: đánh trong lúc lao công, lúc tắm giặt, lúc điểm danh và cả trong bữa ăn hàng ngày. Có lần, Lê Hồng Phong và các đồng chí của mình vừa bưng bát cơm ăn thì bị bọn cai tù xông vào đánh đập túi bụi. Lê Hồng Phong và các đồng chí khác nhất loạt hô to phản đối, mặt khác vẫn thản nhiên ngồi ăn dù máu đang chảy ròng ròng trên mặt. Bát cơm của Lê Hồng Phong đang ăn cũng thấm đầy máu. Thấy thế, một tên cai tù lấy làm kinh ngạc, đến hỏi đồng chí với một giọng hách dịch: "Ê, tại sao tao đánh mày như thế mà mày vẫn thản nhiên ngồi ăn? Mày không biết đau à?"

Lê Hồng Phong thong thả đặt bát cơm chan máu xuống, rồi ngẩng cao đầu, đồng chí cố dằn từng tiếng: “Ngày nào chúng mày không đánh được chúng tao chảy máu thì chúng mày thấy ăn không ngon, ngủ không yên. Vậy chúng tao cần phải ăn để có máu đối phó với chúng mày. Đấy là tất cả lý do, rất đơn giản. Chúng mày cứ tiếp tục đánh đi.”(1)

Nhiều đồng chí, anh em tù thấy chúng đánh Lê Hồng Phong nhiều quá, họ không chịu nổi, muốn xông ra liều chết với chúng. Biết được ý nghĩ ấy, Lê Hồng Phong đã khuyên can anh em chớ có hành động mạo hiểm. Có lẽ chính bài học về phương pháp cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc truyền thụ ở Quảng Châu và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn đã trở nên sâu sắc, do đó Lê Hồng Phong nói với các đồng chí trong tù rằng chúng ta không được ám sát cá nhân. Chúng ta giết một thằng gian ác này, chúng sẽ đưa đến những thằng gian ác khác và có khi lại gian ác hơn những thằng trước. Vả lại, nếu chúng ta giết được một thằng cai ngục của chúng, trong điều kiện chúng ta bị tước hết vũ khí, chúng sẽ buộc tội ta nổi loạn cướp nhà tù để xả súng bắn chết hàng loạt anh em tù của chúng ta. Các đồng chí phải bảo toàn cán bộ cho Đảng. Tất cả chúng ta bị bắt vào đây, chưa phả là đến chỗ tuyệt vọng cùng đường, đảng và phong trào quần chúng đang rất cần đến chúng ta. Chúng ta không được hy sinh vô ích. Vào tù tuyệt đối không được tự vẫn, vì tự vẫn là đầu hàng.

Thông qua các đầu mối liên lạc, đồng chí Lê Hồng Phong đã truyền đạt lại tinh thần của các văn kiện về Đại hội lần thứ 7 của Quốc tế Cộng sản (tháng 7/1935) cho các đồng chí trong Đảng ủy Chi bộ nhà tù Côn Đảo. Trên cơ sở đó, Đảng ủy Côn Đảo đã phân tích rõ thế yếu của Chủ nghĩa phát xít, giáo dục rộng rãi cho tù chính trị tại đây niềm tin sắt son vào sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Liên Xô và các lực lượng tiến bộ chống Chủ nghĩa phát xít.

Với âm mưu thủ đoạn thâm độc hòng giết dần, giết mòn tù nhân bằng chế độ lao tù khắc nghiệt của thực dân Pháp, sức khỏe tù nhân ngày càng suy kiệt, bệnh tật hoành hành. Banh nhà thương (Banh II) lúc bấy giờ chật ních tù nhân. Do bị cấm cố và chế độ ăn uống kham khổ, chân tay Lê Hồng Phong dần bị teo lại, cùng với bệnh kiết lỵ khá nặng, đồng chí bị chuyển về cấm cố tại xà lim Banh II. Hằng ngày, thầy thuốc vào thăm bệnh và phát thuốc. Dù bị bất cứ bệnh gì nguy hiểm cũng chỉ có hai thứ thuốc là nước vôi và bột than. Chỉ trường hợp cấp cứu mới được đưa ra khỏi nhà thương và tiêm một, hai uống thuốc hồi sức. Tất cả bệnh nhân được tập trung về một chỗ rồi lần lượt ra đi. Dù bị bệnh nhưng các đồng chí vẫn bị xiềng chân, cấm cố, ăn uống mất vệ sinh và các yêu sách được trả lời bằng roi vọt.

Nhưng trong lao tù khắc nghiệt, Lê Hồng Phong và các đồng chí luôn dõi theo, lạc quan tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Đồng chí Lê Hồng Phong đã giới thiệu những thành tựu trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở Liên Xô để củng cố niềm tin cho tất cả các anh em đồng chí. Với niềm tin vào cách mạng, đồng chí đã làm một bài thơ 8 câu vẽ nên viễn cảnh đất nước sẽ được giải phóng, địa ngục trần gian Côn Đảo sẽ được xóa bỏ. Côn Đảo sẽ trở thành một thắng cảnh rất đẹp, nơi nghỉ ngơi cho người lao động.      

Niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi của cách mạng của đồng chí đã lan tỏa trong ngục tù, Chi bộ đặc biệt tại Côn Đảo vẫn tích cực chỉ đạo chống khủng bố, lập các tổ cứu tế, đoàn kết tương trợ lẫn nhau, bằng mọi giá phải bảo vệ mạng sống tù nhân, bảo vệ cán bộ Đảng. Những nỗ lực cứu tế của Hội tù nhân và Đảng ủy Côn Đảo đã góp phần cứu hàng trăm tù chính trị thoát khỏi bàn tay tử thần, vơi đi một phần đau thương trong thời kỳ khủng bố trắng của thực dân Pháp.

Cũng trong thời gian ở Côn Đảo, sau khi đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai hy sinh được hơn 1 năm, đồng chí Lê Hồng Phong mới hay tin về người vợ, người đồng chí của mình. Vào một buổi trưa hè năm 1942, dưới gốc bàng xà lim số 2, đồng chí Lê Hồng Phong nói chuyện với người lính Gardrien Ấn Độ vừa ở đất liền ra: Chúng tôi có một nữ đồng chí là Minh Khai bị xét xử thế nào? Ông có biết không? Vừa nghe đến cái tên Minh Khai, người lính Ấn với vẻ mặt trang nghiêm, đôi mắt buồn, đứng lên cất mũ cúi chào rồi kể trong niềm xúc động: Bà lớn Minh Khai bị bắn chết rồi! Tôi nói bà lớn là bà lớn thật, núi cũng phải nghiêng mình, cây cối cũng phải cúi chào bà!

Đồng chí Lê Hồng Phong lặng im như bức tượng đá, tim như ngừng đập. Anh không muốn tin về cái điều khủng khiếp ấy. Thế là người đồng chí trung kiên, người vợ yêu dấu của anh đã mãi mãi ra đi, Hồng Minh bé nhỏ đã mất mẹ…rồi sẽ mất cha… Côn Đảo lặng gió. Những kỷ niệm hiếm hoi bên nhau chợt ùa về!

Ngày 6/9/1942, đồng chí Lê Hồng Phong hy sinh tại khu cấm cố biệt lập Banh II. Đồng chí đã sống, chiến đấu, yêu thương cho đến hơi thở cuối cùng với khí phách của người cộng sản: “Nhờ các đồng chí nói với Đảng rằng, tới giờ phút cuối cùng, Lê Hồng Phong vẫn một lòng tin tưởng ở thắng lợi vẻ vang của cách mạng.”(2)

Tại Côn Đảo, những người tù mỗi lần đi làm khổ sai qua Hàng Dương lại đắp lên mộ của nhà yêu nước Lê Hồng Phong từng viên gạch đá, bất chấp sự đánh đập của bọn gác ngục. Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, bọn gác ngục đã nhiều lần cho tay chân đập phá ngôi mộ đồng chí Lê Hồng Phong để thị uy tù chính trị, nhưng sau mỗi lần đập phá, bia mộ mới lại được tù chính trị dựng lên.

Hơn 75 năm trôi qua kể từ ngày đồng chí Lê Hồng Phong ngã xuống, mỗi lần đến nghĩa trang Hàng Dương, đến thăm Côn Đảo, chúng ta lại bồi hồi xúc động trước những tượng đài bất khuất của cách mạng Việt Nam. Các anh, các chị đã chiến đấu, đã yên giấc ngàn thu nhưng những câu chuyện về sự anh dũng, kiên trung, bất khuất của những người con yêu nước vẫn được kể mãi, in đậm trong những trang sử, trong tâm trí của mỗi chúng ta.

Trần Thị Hồng Nhung – Bảo tàng XVNT

Chú thích:

(1) Báo Nhân dân ngày 21/2/1959

(2) Nghệ An những tấm gương cộng sản – Tập 1 (Trang 24)

 

Video