319
880
7379
36551
51517
7487023
Đối với đồng bào dân tộc Thái ở miền Tây Nghệ An, Bộ niếng (dụng cụ đồ xôi) là một trong những dụng cụ trong nhà quan trọng nhất. Bộ niếng được mệnh danh là “ông vua bếp” thể hiện sự no ấm, đủ đầy trong căn nhà nên rất ít khi cho người khác mượn. Bộ niếng gồm ninh đồng hoặc nhôm, chõ đồ, vỉ tre, trong đó chõ đồ là quan trọng nhất, đòi hỏi sự tỉ mẩn, khéo léo và là yếu tố quyết định sự thơm ngon của thức ăn khi nấu.
Ninh đồ xôi có hình trụ, dạng phễu, thắt eo ở giữa, miệng loe, bụng phình, đáy hơi nhô tròn. Phần gờ miệng chườm ra ngoài khoảng 2 đến 3cm có tác dụng ngăn nước thoát ra ngoài.
Chõ đồ xôi có hình trụ được khoét từ một đoạn gỗ hình tròn, thường là gỗ cây sung hay cây thừng mực, đây là những loại gỗ nhẹ xốp dễ hấp hơi, dẻo và bền không bị nứt. Chõ đồ xôi thường có chiều cao khoảng 30 - 35 cm, phần đáy bên trong của chõ có hai thanh tre chéo nhau hình chữ X để đặt một vỉ đan hình mắt cáo bằng tre, khi cho gạo sẽ không bị lọt xuống phía dưới mà hơi nước ở phía dưới vẫn có thể thoát lên để làm chín gạo. Vỉ thường đan bằng lạt giang, có chóp. Gạo nếp sau khi ngâm xong đổ ra rổ để ráo nước, sau đó bỏ nếp vào chõ đặt lên miệng chiếc ninh xôi rồi đậy nắp. Khi đồ xôi xong, ninh xôi được rửa sạch gác trên chạn. Trước tết Nguyên Đán, khoảng ngày 27, 28 tháng chạp, chõ đồ xôi, ninh xôi, nồi, niêu, xoong, chão thường được gia chủ đưa ra bến nước rửa sạch, phơi khô để đồ xôi cúng ma nhà nhân dịp năm mới.
Bộ niếng đổ xôi trưng bày tại Bảo tàng Nghệ An Xô Viết Nghệ tĩnh
Theo các bậc cao niên của đồng bào Thái kể lại: Khi đồ xôi người ta đổ nước vào phần bụng ninh, sau đó đặt chõ xôi lên. Thông thường người ta bỏ vào ninh xôi 2 hòn đá cuội, khi nước sôi hai hòn đá cuội di chuyển kêu lách cách, giúp nhận biết nước chưa cạn. Nước ninh xôi không bao giờ được để cạn, nước này sau khi ninh xôi xong sẽ làm thuốc (trộn nước này với thuốc vùi vào gio bếp cho nóng rồi đắp lên vết thương). Người con gái mà trốn theo người yêu thường đặt một miếng trầu cau trên miệng hông để báo cho bố mẹ biết là mình đã đi theo người yêu (phong tục của người Thái, Ơ Đu, Khơ Mú). Khi ngồi ở bếp không dùng que gỗ gõ vào ninh này, nếu gõ thì hồn sẽ bay đi, gia chủ ốm đau, bệnh tật. Trong các gia đình đồng bào dân tộc thiểu số, chiếc ninh xôi được xem như một vật dụng linh thiêng, phải bê đội lên đầu, khi không dùng đặt vào chỗ cột bếp, vì cái ninh xôi tượng trưng cho sự no đủ của gia chủ.
Dù quan trọng vậy, nhưng hầu như người Thái không sản xuất được chiếc ninh đồ xôi. Ở các bản làng người Thái xứ Nghệ vẫn có những xưởng rèn, nhưng họ cũng chỉ dừng lại ở việc rèn các nông cụ, không làm được ninh đồ xôi. Có thể là trình độ về luyện kim của cộng đồng thiểu số này không cho phép họ làm được những vật dụng có độ khó như thế. Người Mông là cộng đồng có nghề rèn tinh xảo cũng không làm vật dụng này.
Một số cụ cao niên được hỏi kể rằng trước kia, người Thái chủ yếu mua niếng đồ xôi từ người Lào. Vì thế mà giá cả khá đắt đỏ, nhất là khi vật dụng này được đúc bằng đồng. Về sau, những người thợ luyện kim từ miền xuôi cũng làm được niếng đồ xôi. Dân bản thường mua nó từ những người bán hàng rong.
Ngày nay, những chiếc nồi ninh xôi bằng đồng thau gần như không còn được sản xuất nữa. Nó chỉ còn được một số ít gia đình người Thái giữ được. Có những cái tuổi đời lên đến hàng trăm năm. Vào thập niên 1980 và 90, nhiều người miền xuôi tìm đến hỏi mua những cổ vật này. Không ít người vì người mua trả giá cao nên đã bán đi.
Mặc dù trong căn bếp của cộng đồng người Thái xứ Nghệ đã xuất hiện những đồ làm bếp hiện đại, thế nhưng chiếc ninh đồ xôi vẫn còn hiện hữu bền lâu cùng những nét ẩm thực độc đáo của cộng đồng người Thái ở miền Tây xứ Nghệ .