941
1011
2775
24557
51517
7475029
Tranh thêu tay truyền thống là nét đẹp văn hóa tinh hoa của dân tộc. Theo các nhà nghiên cứu, nghề thêu tay xuất hiện rất sớm, từ thời vua Hùng Vương đã phát hiện được dấu vết vải với những mũi chỉ thêu đột đơn giản miêu tả cỏ cây hoa lá. Đến thế kỷ thứ XVII, Tiến sĩ Lê Công Hành sau lần đi sứ Trung Quốc học được kỹ thuật thêu và truyền lại cho người dân. Thời kỳ này, sản phẩm thêu tay chủ yếu là y phục cho triều đình và các sản phẩm (tác phẩm) thờ tự như Hoành phi, Câu đối, Trướng và Bức cửa võng,... Các sản phẩm tranh thêu ngày càng đa dạng phong phú cùng với kỹ thuật thêu điêu luyện, tỉ mỉ tạo nên những bức tranh có những đề tài và ý nghĩa khác nhau như thêu phong cảnh, tĩnh vật, con người và các lễ hội.
Để có được những bức tranh thêu sống động thì người thợ thêu ngoài kỹ thuật điêu luyện, còn phải biết thổi hồn vào tác phẩm, gửi gắm tâm tư tình cảm của mình vào từng đường kim mũi chỉ. Điều quan trọng nhất trong đời một người thợ thêu là chữ Tâm và sự cần mẫn là chữ Nhẫn. Có cái tâm trong sáng thì trong lòng mới nắm bắt được cái hồn của từng tác phẩm.
Với tổng số 110 bức tranh thêu trong sưu tập “ Tranh thêu thời phong kiến tại Bảo tàng Nghệ An - Xô viết Nghệ Tĩnh” cho ta thấy rõ được những nét đặc sắc, cái hồn và giá trị của từng tác phẩm bức tranh thêu với các đề tài khác nhau. Mỗi đề tài sáng tác của tranh thêu đều có một ý nghĩa riêng. Có thể xếp thành 04 đề tài chủ yếu
1. Đề tài về phong cảnh thiên nhiên: Tùng - Hạc, Trúc - Điểu - Cúc - Điệp, Công - Mẫu đơn. Trong sưu tập tranh thêu của Bảo tàng có 23 hiện vật về đề tài này. Đến với tranh thêu Tùng - Hạc, hình ảnh chính là cây Tùng và chim Hạc - biểu tượng về sự trường thọ, ngay thẳng, thanh cao, trong sạch, hạnh phúc, hòa hợp, hòa thuận đem lại sự may mắn cho gia chủ và mọi người viếng thăm. Bức tranh thêu Tùng Hạc giàu ý nghĩa cả về triết lý nhân sinh lẫn trong phong thủy. Cây Tùng là biểu tượng cho khí phách mạnh mẽ, kiên cường, không sợ hiểm nguy trước những thử thách của thiên nhiên và cuộc đời. Chim Hạc mang tinh thần vươn cao, vươn xa cất cánh lên bầu trời. Do đó, Hạc cũng được sử dụng trong phong thủy đem lại nguồn năng lượng sống dồi dào và ý chí mạnh mẽ. Để minh chứng cho điều đó thì tại sưu tập này có 4 bức tranh thêu đề tài Tùng Hạc nhưng chúng tôi đưa ra 2 bức đại diện cho đề tài này:

![]()
Hai bức tranh này đều thêu hai hình ảnh chủ đạo là cây Tùng và chim Hạc cùng với hoa, cỏ nước và chim trời tạo nên khung cảnh thanh bình, tự nhiên và viên mãn. Hình ảnh cây Tùng to khỏe, đứng sừng sửng với khí phách hiên ngang, kiên cường mạnh mẽ, hình ảnh chim Hạc với các tư thế chân co chân duỗi, tựa lưng vào nhau. Có những con hạc với tư thế đang bay biểu tượng cho tinh thần vươn cao, ý chí mạnh mẽ, sự tự do, thanh cao, quyền quý, trí tuệ và đồng thời thể hiện sự đoàn kết, bao bọc thương yêu nhau, hòa thuận chung thủy, ấm êm hạnh phúc.
Đến với đề tài: Trúc - Điểu - Công - Cúc - Điệp mang một ý nghĩa về sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người, sự bền bỉ kiên cường, thanh cao của con người đồng thời tượng trưng cho sự trường thọ may mắn và sự phát triển dồi dào. Đôi khi tranh thêu Trúc - Điểu - Công - Cúc - Điệp cũng được xem như một biểu tượng của sự yêu thích thiên nhiên và sự trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống. Hình ảnh cây Trúc là biểu tượng cho sự ngay thẳng, kiên cường dẻo dai, bền bỉ và tinh thần bất khuất vượt qua mọi khó khăn. Với chim Điểu là biểu tượng cho sự tự do, thanh cao, sự hòa hợp với thiên nhiên và còn tượng trưng cho sự vui vẻ, hòa thuận thủy chung gắn bó suốt đời, đồng thời mang lại không khí ấm áp, hạnh phúc, may mắn và giàu sang. Còn với hình ảnh hoa Cúc tượng trưng cho hoàng gia biểu tượng cho sự cao sang quý phái, cầu mong thịnh vượng phát triển trường tồn, mang lại tài lộc hoan hỉ và đón phúc khí vào nhà đồng thời tượng trưng cho lòng hiếu thảo và sự kính trọng mong muốn sức khỏe, trường thọ.
Treo bức tranh thêu này mang đến cho không gian một cảm giác hoài cổ, ấm cúng và gần gủi với thiên nhiên cũng như cội nguồn văn hóa. Sự hiện diện của chúng là nhắc nhở về vẻ đẹp của sự bền bỉ, phẩm hạnh và những giá trị nhân văn cao đẹp. Tại bộ sưu tập này có tới 6 hiện vật thêu đề tài này đó là:
Tất cả những bức tranh này đều chung một đề tài về một khung cảnh thanh bình, phối hợp hài hòa giữa chim – hoa – cây và đá, màu sắc tranh nhẹ nhàng nhưng nổi bật, thể hiện sự thanh nhã và sang trọng. Nổi bật hơn cả là bức tranh mang số hiệu sau:

Hai bức tranh này thêu nổi bật hình ảnh hai con chim công đang sánh đôi bên khóm trúc xanh và những đóa mẫu đơn rực rỡ. Trên nền vải vàng và trắng ngà, từng đường kim mũi chỉ được thể hiện một cách tinh xảo mang đậm tính nghệ thuật dân gian. Chim công là biểu tượng của phú quý, quyền lực và sắc đẹp cũng là điềm lành, thể hiện sự cao sang, danh vọng và hạnh phúc trong hôn nhân. Hoa mẫu đơn đại diện cho sự giàu sang, thịnh vượng, còn cây trúc thể hiện phẩm chất kiên cường, ngay thẳng của người quân tử.
Trên bức tranh mang số hiệu V.350 có thêu 4 chữ Hán lớn có phiên âm: Văn học chính sự, dịch nghĩa: Chuyên việc văn học. Bằng chỉ thêu màu tím, phía trên bên phải thêu 5 chữ Hán nhỏ có phiên âm: Bảo Đại Giáp Tuất hạ, dịch nghĩa: Bảo Đại mùa hạ năm Giáp Tuất (1934). Phía dưới bên trái thêu 8 chữ hán nhỏ có phiên âm: Nghệ An tỉnh Hưng Văn Hiệu tráng hạ.... dịch nghĩa: Hiệu Hưng Văn tỉnh Nghệ An kính mừng. Diềm ngoài làm bằng vải lụa màu nâu.Tất cả hòa quyện tạo nên một tổng thể hài hòa, sang trọng, giàu tính biểu tượng, thường được treo trong không gian trang trọng như phòng khách, phòng thờ hay dùng làm quà tặng trong dịp mừng thọ, cưới hỏi.
2. Đề tài thêu linh vật: Tứ linh (Long, Ly, Quy, Phượng)
Đến với đề tài thứ 2: Tứ linh: Long (Rồng) - Ly (Lân) - Quy (Rùa) - Phụng (Phượng) thì có 10 bức tranh thêu đề tài này. Đây là đề tài giữ vị trí đặc biệt, không chỉ vì giá trị thẩm mỹ mà còn bởi chiều sâu biểu tượng văn hóa tâm linh. Tứ linh là những linh vật linh thiêng trong tín ngưỡng phương Đông, đại diện cho các yếu tố trời đất, âm dương, ngũ hành và những phẩm chất cao quý của con người. Rồng tượng trưng cho uy quyền và phúc lộc; Lân biểu thị nhân nghĩa và điềm lành; Quy gắn với sự trường thọ, bền vững; còn Phụng (Phượng) là biểu tượng của đức hạnh, hòa bình và sắc đẹp. Khi được thể hiện trên tranh thêu, Tứ linh không chỉ làm giàu thêm tính nghệ thuật qua các đường kim mũi chỉ tinh xảo mà con mang thông điệp cầu chúc cát tường, hưng thịnh, an khang cho gia chủ. Sự hiện diện của đề tài Tứ linh trong tranh thêu là minh chứng rõ nét cho tư duy thẩm mỹ sâu sắc, cũng như niềm tin tâm linh bền vững của người Việt, đồng thời khẳng định vai trò của nghệ thuật thêu trong việc bảo tồn và truyền tải giá trị văn hóa truyền thống qua các thế hệ.
Với đề tài này có Bức cửa vọng mang số hiệu


Đây là hai bức tranh thêu nổi bật hình ảnh “Lưỡng long chầu mặt trời”. Hình ảnh hai con rồng đối xứng, thân uốn lượn mềm mại, mắt tròn sáng, râu dài, mào dựng, vảy đều tăm tắp, đang hướng về hình tròn rực rỡ ở chính giữa – biểu tượng của Mặt trời. Mây cuộn bao quanh, tạo cảm giác linh thiêng và huyền ảo. Trong văn hóa phương Đông, Rồng là con vật linh thiêng đứng đầu tứ linh (Long - Ly- Quy - Phượng) tượng trưng cho quyền lực, sự thịnh vượng và mưa gió thuận hòa. Mặt trời tượng trưng cho nguồn sáng, trí tuệ và vương quyền. Khi hai con rồng cùng chầu về hướng mặt trời đó là hình ảnh quy tụ quyền lực và trí tuệ về trung tâm, tượng trưng cho lòng trung thành, sự đoàn kết và kính ngưỡng đối với bậc minh quân. Đồng thời hình ảnh Lưỡng long chầu mặt trời thể hiện sự cân bằng, hài hòa gợi nhắc con cháu giữ gìn đoàn kết. Mặt trời ở trung tâm tượng trưng cho lý tưởng và danh vọng mà gia tộc muốn hướng tới.
Đề tài Lưỡng long chầu mặt trời thường xuất hiện trên kiến trúc đình, chùa, đền, miếu, hoành phi, câu đối, bức cửa vọng... nhằm tôn vinh sự cao quý của không gian và thể hiện ý nghĩa cầu phúc, cầu thịnh vượng.
Những bức tranh này có sự kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật thêu truyền thống và giá trị tinh thần của văn hóa Việt. Tác phẩm không chỉ là sản phẩm mỹ nghệ tinh xảo và còn là biểu tượng của danh giá, gia phong và niềm tự hào của dòng tộc.
Với hình ảnh Phượng và Lân thì có 2 bức tranh – Hoành phi
Hai bức tranh này thêu hình ảnh hai linh thú là Kỳ Lân và Chim Phượng - thuộc hệ biểu tượng cát tường trong mỹ thuật Á Đông.

Bức tranh số 1 ở trung tâm thêu 4 chữ Hán lớn có nội dung “Kinh doanh tiến bộ” xen giữa và bao quanh các chữ Hán thêu hình ảnh chim Phượng và Kỳ lân bố trí đối xứng nhau trên nền vải màu đỏ, chỉ vàng và trắng, viền trang trí hoa lá và họa tiết cát tường. Hình ảnh Phượng biểu tượng cho sự thịnh vượng, danh tiếng và thuận lợi song hành cũng ngữ cảnh này là nâng tầm thương hiệu mở rộng uy tín. Kỳ Lân biểu tượng bảo hộ, phúc lộc bền vững đặt cạnh chữ Kinh doanh tiến bộ với hàm ý giữ vững nền tảng khi phát triển. Sự kết hợp giữa hai hình ảnh Phượng và Lân cùng 4 chữ hán này là để gửi gắm lời chúc cơ nghiệp phát triển, tiến lên từng bước đồng thời an toàn bền lâu. Bức Hoành phi này dùng để treo trong cửa hàng, xưởng nghề, dịp khai trương vừa có chức năng trang trí, vừa mang ý nghĩa cầu chúc kinh doanh phát đạt.

Bức tranh số 2 trung tâm là 4 khung tròn viền hồi văn hiện để trống (trước đây có thể thêu hoặc dán chữ Phúc- Lộc - Thọ - Hỷ) – Các khung tròn rỗng linh hoạt để chèn nội dung phù hợp với từng dịp. Xen kẽ là hình ảnh Phượng và Kỳ lân bố trí luân phiên nhau, hai đầu Hoành phi thêu hình nhân vật mặc triều phục, đóng vai trò trấn trạch, viền ngoài nhiều lớp, mép dưới có tua rua nhiều màu. Chim Phượng tượng trưng cho vinh hoa, quý khí, hòa hợp âm dương, mang vận may đến cho chủ nhân, Kỳ lân tượng trưng cho điềm lành, trừ tà và bảo vệ. Sự kết hợp này vừa thu hút may mắn vừa bảo vệ không gian nghi lễ. Bức hoành phi này phù hợp dùng trong lễ cưới, lễ mừng thọ, nghi thức thờ cúng.
Tổng thể của cả hai bức tranh mang chủ đề: Cát tường - Bảo hộ - Viên mãn với ý nghĩa bảo vệ và chúc phúc cho sự thành công lâu dài, danh tiếng rạng rỡ, cuộc sống viên mãn, sung túc phù hợp.
Còn với hình tượng rùa (Quy) luôn giữ một vị trí đặc biệt, gắn liền với quan niệm về trường thọ, trí tuệ và sự vững bền của dân tộc. Trong các bố cục Tứ linh (Long – Ly – Quy – Phượng), rùa đại diện cho sự trường tồn và nền tảng vững bền, làm cân bằng sức mạnh uy dũng của rồng và vẻ rực rỡ của phượng hoàng. Không chỉ vậy, hình ảnh rùa còn gắn với truyền thống hiếu học và tinh thần tôn vinh tri thức, như trong Văn Miếu – Quốc Tử Giám, rùa đội bia Tiến sĩ để lưu danh những bậc hiền tài. Khi đưa vào tranh thêu, rùa vừa mang giá trị thẩm mỹ, vừa phản ánh triết lý sống sâu sắc: con đường thành công đòi hỏi sự kiên nhẫn, trí tuệ và bản lĩnh bền bỉ, cũng như sự trường tồn của văn hóa Việt Nam qua bao thế hệ.
Trong bộ sưu tập Tranh thêu hình tượng Rùa (Quy) được thêu ở diềm các bức trướng có số hiệu V.113, 114, 115,116 với hình ảnh ông tiên đứng trên lưng rùa là biểu tượng của sự trường thọ, ổn định, vững chãi, bảo vệ hộ mệnh, hòa hợp trời đất ghi nhớ và lưu truyền.
Rùa với lớp mai chắc chắn biểu thị cho cõi địa (trái đất, lịch sử), ông tiên tượng trưng cho cõi thiên (tâm linh, siêu thoát). Hình ảnh này biểu thị mối liên hệ, sự chuyển hóa giữa thế gian và thế giới thiêng.
3. Đề tài Phúc - Lộc - Thọ.
Dưới thời phong kiến, khi tín ngưỡng và đạo lý Nho giáo ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống tinh thần, nhiều đề tài nghệ thuật mang ý nghĩa biểu trưng cho ước vọng của con người ra đời. Trong đó, Phúc - Lộc - Thọ là một đề tài tiêu biểu, thể hiện mong muốn về một cuộc sống đầy đủ hạnh phúc và trường thọ.
Theo quan niệm của người xưa, “Phúc” là hạnh phúc, con cháu sum vầy; “Lộc” là tài lộc, công danh, phú quý còn “Thọ” là sống lâu, khỏe mạnh, an nhàn. Ba yếu tố này hợp thành “Tam đa” – ba điều may mắn lớn nhất trong đời người. Người Việt tin rằng có đủ Phúc - Lộc - Thọ thì cuộc sống mới thật viên mãn.

Bức số 1 “Phú quý trường xuân” (có nghĩa giàu sang phú quý mong ước cuộc sống lâu dài tươi mới như mùa xuân) là tác phẩm nghệ thuật thời phong kiến ở Nghệ An, dùng để trang trí. Tranh thêu hình ông Thọ trên nền vải đỏ có nhiều chữ thọ, tay cầm bình rượu và gậy trúc. Bên phải là một cô gái trẻ đẹp có mái tóc đen nhánh, đứng bên trái là một cậu bé nâng cành hoa tặng ông. Bức tranh này thường được treo trong gia đình như phòng khách, gian thờ gia tiên, phòng cưới mang ý nghĩa chúc tụng hạnh phúc, sung túc, con cháu đề huề, được dùng trong dịp cưới hỏi, mừng con cháu, mừng Tết.
Bức thứ 2: Tam đa (Phúc –Lộc – Thọ) là bức tranh nghệ thuật thêu 3 nhân vật gồm ông Thọ (râu dài, tay cầm gậy đào), Quan Lộc (quan phục), Phúc (tay cầm thỏi vàng hoặc ngọc như ý). Bức tranh này thường treo ở nhà thờ họ, từ đường, phòng thờ, đình chùa mang giá trị cốt lõi mà con người Á Đông hướng tới con cháu đầy đàn, hạnh phúc, tài lộc thăng tiến công danh, sống lâu mạnh khỏe. Được dùng trong dịp Tết, mừng thọ và khánh ý lớn.
Đề tài “Phúc- Lộc- Thọ” trong tranh thêu tay thời phong kiến không chỉ là biểu tượng của hạnh phúc, tài lộc và trường thọ mà còn là kết tinh tín ngưỡng, tư tưởng và nghệ thuật dân gian Việt Nam. Tranh không chỉ làm đẹp không gian sống mà còn gửi gắm những lời chúc tốt đẹp, khẳng định giá trị nhân văn sâu sắc.
4. Đề tài lễ hội: Đám rước, Mừng thọ, Vinh quy bái tổ.
Trong tranh thêu thời phong kiến, các đề tài lễ hội như đám rước, vinh quy bái tổ và mừng thọ mang ý nghĩa sâu sắc về văn hóa và đạo lý truyền thống.
Tranh thêu Đám rước thể hiện không khí tưng bừng náo nhiệt trong các dịp lễ hội lớn, phản ánh đời sống cộng đồng gắn bó, tôn vinh tín ngưỡng dân gian.
Tranh Vinh quy bái tổ khắc họa hình ảnh người đỗ đạt trở về quê hương trong vinh quang, ca ngợi tinh thần hiếu học, trọng đạo lý uống nước nhớ nguồn.
Tranh Mừng thọ thể hiện lòng hiếu kính với bậc sinh thành, chúc phúc cho tuổi thọ và sự sum vầy của gia đình.


Ở bức tranh Vinh quy bái tổ (1) được bố cục theo chiều dọc, tạo cảm giác hành trình từ xa trở về quê hương. Trên cùng là hình ảnh cổng làng, cờ quạt bay phấp phới thể hiện nơi đón đoàn học trò đỗ đạt trở về. Tranh thêu con đường uốn lượn với đoàn rước đông đảo gồm cờ lọng, kiệu rước, lính hầu, người phất cờ, khải hoàn về quê. Phía sau cổng làng dân làng, người thân chờ đón – nơi kết thúc hành trình là quê hương gốc rễ.
Ở bức tranh Mừng thọ (2) sử dụng nền đỏ làm chủ đạo – màu sắc tượng trưng cho hạnh phúc, may mắn và thịnh vượng. Các họa tiết thêu tinh xảo trang nghiêm: người cao tuổi ngồi ở vị trí trung tâm, xung quanh là con cháu và người thân đến dâng lễ thể hiện lòng kính trọng, ngoài ra còn thêu thêm các họa tiết như mây, cây tùng, hàng cau,... đó là những biểu tượng quen thuộc của trường thọ, phú quý và gắn kết yêu thương.
Những bức tranh thêu này không chỉ đẹp về hình thức mà còn lưu giữ giá trị tinh thần, phản ánh nếp sống trọng tình nghĩa, lễ nghĩa: kính trên nhường dưới và truyền thống tốt đẹp của người Việt.
Tóm lại, tranh thêu tay thời phong kiến ở Việt nam nói chung, Bảo tàng Nghệ An- Xô Viết Nghệ Tĩnh nói riêng là những tác phẩm quý, có giá trị vượt thời gian, là một trong những di sản cần bảo tồn và phát huy giá trị để lưu giữ cho mai sau. Nó không chỉ phản ánh nét đẹp, tinh túy của nghề thủ công truyền thống mà còn là minh chứng cho các giá trị văn hóa, nghệ thuật của dân tộc ta./.