Công tác tuyên truyền của Đảng trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh.

Tác giả: admin
Ngày 2009-03-31 08:24:10

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, công cuộc xây dựng đất nước ta diễn ra theo con đường đổi mới toàn diện được mở ra từ Đại hội VI của Đảng và chịu nhiều tác động của tình hình chính trị thế giới. Các thế lực thù địch đang âm mưu “diễn biến hoà bình”, kích động và đa nguyên chính trị và đa đảng để đối lập với Đảng cộng sản. Trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng đây đó ở trong và ngoài nước đang lan truyền quan điểm sai trái, phủ nhận những thắng lợi vẻ vang mà cách mạng Việt Nam đã giành được bằng mồ hôi và xương máu của nhân dân ta. Thâm độc hơn nữa, các thế lực thù địch đang thổi phồng khuyết điểm của Đảng. Họ xuyên tạc bóp méo lịch sử, phủ nhận Đảng cộng sản, chủ nghĩa Mác - Lê nin. Vì vậy đấu tranh với những luận điệu phản động chống phá cách mạng và xây dựng những cứ liệu khoa học là nhiệm vụ của ngành khoa học xã hội. Việc giáo dục tuyên truyền sâu rộng trong quảng đại quần chúng nhằm nâng cao nhận thức về chủ nghiã Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là một việc làm cần thiết.

Công tác tuyên truyền trong bất cứ thời đại nào cũng nhằm phục vụ cho yêu cầu chính trị thời đại đó. Đảng ta muốn nắm được động lực chính của cách mạng tức là quần chúng công nông thì công tác tuyên truyền không thể thiếu được. Gần 70 năm hoạt động của Đảng, công tác tuyên truyền rất rộng lớn và cũng có bài viết về Đảng Cộng sản Việt Nam, kể cả các tác giả nước ngoài. Ngay cả Đảng Cộng sản Pháp khi phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh đang diễn ra quyết liệt đã cho ra cuốn “ Một năm khủng bố và cuộc đấu tranh cách mạng ở Đông Dương” (Paris, 1931). Cuốn sách đã kịp thời nêu trước dư luận nhân dân nước Pháp và thế giới những tội ác đẫm máu của chính quyền thuộc địa đối với các chiến sỹ Xô Viết. Đặc biệt cần nhắc tới cuốn sách đã làm sôi nổi dư luận đương thời, cả ở Việt Nam và nước ngoài. Đó là cuốn “Đông Dương cấp cứu” của nữ văn sỹ Pháp Ăng đrây Vi ô lít (Andrée Viollis) viết sau chuyến bà sang thăm Đông Dương năm 1931. Cuốn sách đã kịch liệt tố cáo những thủ đoạn đàn áp dã man của thực dân Pháp đối với các chiến sỹ cách mạng Việt Nam trong các nhà tù.

Năm 1933, đồng chí Hà Huy Tập( Tổng Bí thư của Đảng năm 1935) đã viết cuốn “Lịch sử phong trào cộng sản Đông Dương” nhằm tổng kết kinh nghiệm phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Từ năm 1960 đến nay các chuyên đề về phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh đã được các nhà sử học trong và ngoài nước nghiên cứu khá công phu, trong đó có việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin vào Việt Nam nói chung và Nghệ Tĩnh nói riêng.

Để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin trong điều kiện đất nước đang chìm đắm trong vòng nô lệ là một vấn đề đòi hỏi người cách mạng phải kiên trì vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Lê nin đã từng nói rằng: Truyền bá các tư tưởng xã hội chủ nghĩa trong công chúng, thống nhất về mặt tổ chức những người công nhân giác ngộ theo cương lĩnh lý luận mác xít cách mạng, góp phần đắc lực và hoàn thiện Đảng cộng sản.

Bôn ba ra nước ngoài tìm đường cứu nước, sau khi bắt gặp Luận cương của Lê nin – con đường cứu nước giải phóng dân tộc Việt Nam đã được mở ra, đồng chí Nguyễn Ái Quốc tìm mọi cách để truyền bá chủ nghĩa Mác Lê nin về Việt Nan. Người nói: mục đich tuyên truyền là đem một việc gì đó nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo và dân làm. Sau khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, Nghị quyết hội nghị Trung ương tháng 10/1930 đã nhấn mạnh: Đảng phải mở rộng việc tuyên truyền cổ động(ra báo, sách, truyền đơn, diễn thuyết...). Tài liệu huấn luyện phải viết cho rõ ràng, dễ hiểu và in cho sạch sẽ”(Văn kiện Đảng bộ Nghệ An, tập I, BNC lịch sử Nghệ An, 1971, trang 94). Nghị quyết đó đã được cụ thể hoá trong các chỉ thị riêng biệt về công tác công hội, nông hội và các đoàn thể khác.

Xã hội Việt Nam nói chung và Nghệ Tĩnh nói riêng vào những năm đầu thế kỷ 20 còn chìm đắm trong vòng nô lệ. Chính sách ngu dân là một trong những thủ đoạn thâm độc của thực dân Pháp nhằm kìm hãm nhân dân Việt Nam trong dốt nát tối tăm để dễ bề cai trị. Ngày 30/12/1898, Bộ Thuộc địa Pháp đã ban hành một sắc lệnh bác bỏ việc thực hiện Luật Báo chí của Quốc hội Pháp năm 1881(một bộ luật ít nhiều mang tính chất tiến bộ). Ngày 24/10/1927, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định cấm các tờ báo có nội dung tiến bộ.

Bên cạnh hàng loạt biện pháp bạo lực, bọn thống trị không quên dùng một thủ đoạn thâm độc mà tên thực dân cáo già trong làng báo thuộc địa Éc nét Ba buy đã tổng kết: Ngày nay bọn cộng sản dùng cách cổ động thì ta cũng lại phải tìm cách cổ động để đối phó lại mới được. Âm mưu của thực dân Pháp nhằm chống lại sự tuyên truyền của báo chí cách mạng đối với nhân dân. Chúng cho xuất bản một số báo phản động như: Hà Tĩnh tân văn(tháng 8/1928), Hoan Châu tân báo(1/1930), Thanh Nghệ Tĩnh tân văn(7/1930), Bình Phú tân văn(8/1930). Năm 1932, thực dân Pháp cho tư sản ở Nghệ Tĩnh ra tờ “Sao Mai”, tờ “Trung Kỳ tuần báo”. Để lợi dụng số thân sỹ trong Viện Dân biểu Trung Kỳ, Pháp cho xuất bản tờ “Tiếng Dân” tại Huế(ngày 10/8/1927). Song song với việc thi hành chính sách ngu dân về văn hoá, thực dân Pháp còn đầu độc nhân dân ta bằng rượu cồn và thuốc phiện.

Về mặt kinh tế, đời sống nhân dân hết sức khổ cực, mất mùa đói kém thường xuyên nhưng các thứ thuế vẫn tăng. Người nông dân phải bỏ quê hương đi phu Cửa Rào, đồn điền Trạm Lụi, Phú Riềng...Người nông dân một cổ hai tròng. Có áp bức thì có đấu tranh. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 bùng lên mạnh mẽ nhưng cuối cùng đều bị thất bại vì chưa có một đường lối cách mạng đúng đắn. Và chỉ có Nguyễn Ái Quốc mới tìm ra con đường cách mạng đúng đắn đó. Người đã sớm thấy báo chí là công cụ để đấu tranh vạch mặt tội ác của chủ nghĩa thực dân và tuyên truyền giác ngộ các dân tộc thuộc địa vùng lên tự giải phóng. Ngay từ những ngày đầu đặt chân trên đất Pháp, với vốn liếng tiếng Pháp còn ít những Nguyễn Ái Quốc đã viết báo đăng trên các báo như báo “Nhân đạo” và “Người cùng khổ” lên tiếng đòi tự do cho dân tộc Việt Nam và các dân tộc bị áp bức.

Sau khi được trang bị tư tưởng mới nhờ sự tiếp cận với Luân cương của Lê nin và gia nhập Đảng cộng sản Pháp; Nguyễn Ái Quốc chuyển từ người yêu nước sang người cộng sản được trang bị chủ nghĩa Mác - Lê nin. Người nhận thức rất rõ: con đường cách mạng là phải đánh đổ đế quốc và phong kiến, thực hiện người cày có ruộng. Vậy muốn thực hiện hai nhiệm vụ đó, Đảng cách mạng phải coi sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng và phải lấy công nông làm gốc, là động lực chính. Do đó một Đảng cách mạng theo chủ nghĩa Mác - Lê nin không được xem nhẹ công tác tổ chức quần chúng. Một người đảng viên bắt buộc phải hoà mình với quần chúng công nông để tuyên truyền cách mạng, giáo dục đường lối của Đảng và lãnh đạo quần chúng đấu tranh.

Xác định vai trò quan trọng của công tác tuyên truyền nên khi mới thành lập Đảng cộng sản Việt Nam rất quan tâm đến vấn đề này. Án nghị quyết của Trung ương toàn thể hội nghị lần thứ II(tháng 3/1931) đã đề ra nhiệm vụ: Tổ chức Bộ Cổ động tuyên truyền từ Trung ương - Xứ uỷ, tổng uỷ...và việc chọn người làm công tác đó cũng rất quan trọng , có chọn lọc và các cơ quan lãnh đạo của Đảng phải kiểm tra và lãnh đạo chặt chẽ sát sao.

I. Cơ cấu tổ chức của công tác tuyên truyền trong Đảng:

Bộ phận tuyên truyền là một thành phần quan trọng trong tổ chức từ Xứ uỷ Trung Kỳ đến tận chi bộ cơ sở.

1. Xứ uỷ: Sau khi Đông Dương cộng sản Đảng ra đời( 17/6/1929) đã phân công đồng chí Trần Văn Cung và Nguyễn Phong Sắc vào chỉ đạo phong trào ở Nghệ Tĩnh. Ngay từ đầu, các đồng chí rất chú trọng đến công tác tuyên truyền. Vừa làm công tác xây dựng tổ chức Đảng vừa là người chịu trách nhiệm tuyên truyền ấn loát tài liệu, đồng chí Trần Văn Cung, Võ Mai, Nguyễn Phong Sắc đã từng bước một gây dựng cơ sở Đảng mạnh ở Nghệ Tĩnh. Theo tài liệu của mật thám Pháp để lại và qua hồi ký của những đảng viên hoạt động năm 1930-1931 như Nguyễn Phúc, Nguyễn Lợi, Chu Văn Biên, Võ Mai...chúng ta thấy rõ cơ cấu trong tổ chức của Xứ uỷ Trung Kỳ gồm các ban:

  • Ban Tuyên truyền: 3 người
  • Ban Công nhân: 3 người
  • Ban Nông dân: 3 người
  • Ban Thanh niên cộng sản: 3 người
  • Ban Chống đế quốc chủ nghĩa: 3 người
  • Ban Quân sự: 1 người
  • Ban Phụ nữ:

Qua đó chúng ta thấy rằng Ban Tuyên truyền là ban quan trọng nhất trong các ban của Xứ uỷ.

2. Tỉnh uỷ: Sơ đồ của tổ chức của Tỉnh uỷ Hà Tĩnh năm 1931(bản gốc, do đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ là Trần Húc vẽ bằng bút chì) chúng ta có thể hình dung được tổ chức của Tỉnh uỷ Nghệ An lúc bấy giờ.

Sơ đồ như sau:

* Trước khi thành lập Ban Thường vụ Tỉnh uỷ: từ tháng 5/1930 đến 1/1931:

- Tỉnh bộ Hà Tĩnh có 5 đồng chí trong Ban Cán sự: đồng chí cán sự Tuyên truyền có vị trí thứ 3 sau đồng chí Bí thư và phó bí thư Tỉnh uỷ. Cán sự tuyên truyền phục trách tiểu ban tuyên truyền và ấn hành của tỉnh uỷ.

- Huyện uỷ: ban lãnh đạo huyện bộ gọi là Ban Trị sự: đồng chí Trị sự tuyên truyền phụ trách tiểu ban Tuyên truyền ấn hành

- Chi bộ: đồng chí tuyên truyền là uỷ viên Ban chấp hành chi bộ

- Tổ chức Nông hội (gọi là tỉnh Bộ Nông) cũng được cơ cấu các thành phần như Tỉnh uỷ. Đồng chí phụ trách tuyên truyền từ cấp tỉnh đến xã đều nằm trong Ban cán sự.

* Thành lập ban Thường vụ Tỉnh uỷ: Tháng 1/1931: phong trào đấu tranh của nhân dân dưới sự lãnh đạo của tỉnh đảng bộ lên cao, công tác tuyên truyền đòi hỏi yêu cầu cao hơn.

- Ban Thường vụ gồm: Bí thư, tuyên truyền và quần chúng. Uỷ viên Thường vụ phụ trách Tiểu ban tuyên truyền(có ba người) và Tiểu ban ấn hành( 3 người)

- Trong tổ chức Huyện uỷ, tổng uỷ và chi bộ: đồng chí làm công tác tuyên truyền cấp nào thì thuộc Ban Thường vụ cấp đó.

- Tỉnh đoàn Thanh niên: xác định thanh niên là lực lượng xung kích của Đảng nên công tác tuyên truyền giáo dục trong tổ chức Thanh niên được quan tâm đặc biệt, vai trò của công tác tuyên truyền cũng được đặt trong Ban Thường vụ từ cấp Tỉnh đến tận chi bộ Đoàn.

- Tổ chức Nông hội: đồng chí phụ trách tuyên truyền là uỷ viên Ban Thường vụ từ cấp Tỉnh đến Xã bộ nông

Tóm lại: về mặt tổ chức, Đảng ta đã đặt công tác tuyên truyền vào vị trí quan trọng từ Trung ương xuống tận cơ sở. Như vậy thường xuyên quán triệt được các chủ trương. nghị quyết của cấp trên, mặt khác có sự chỉ đạo sát sao của các cấp lãnh đạo, tạo điều kiện cho công tác tuyên truyền phát triển mạnh trong quần chúng cách mạng làm tiền đề cho phong trào đấu tranh ngày càng lên cao.

II. Vai trò của cán bộ tuyên truyền và hình thức tuyên truyền:

1.Vai trò cán bộ tuyên truyền:

Người cán bộ tuyên truyền là người có vai trò quan trọng trong việc đưa ý trưỏng của chủ nghĩa Mác - Lê nin vào quần chúng nhân dân. Đó là những người có bản lĩnh chính trị vững vàng. Trung ương Đảng dã có nghị quyết về việc chọn cán bộ tuyên truyền tại Hội nghị lần thứ II(tháng 3/1931): “Công việc cổ động tuyên truyền rất phiền phức, vậy nên... lựa chịn người bổ sung vào bộ ấy thì phải đặc biệt chú ý về nền tư tưởng và cái xu hướng của họ. Không nên giao trách nhiệm cho những người có những tư tưởng hoặc xu hướng không hợp với tư tưởng và con đường chánh trị của Đảng”(Văn kiện Đảng bộ Nghệ An” tập 2, Ban nghiên cứu Lịch sử Nghệ An, năm 1971, tr. 192).

Đó là những người có sẵn bầu nhiệt huyết, hiểu biết, nhanh nhẹn hoạt bát. Dám đấu tranh trực diện với kẻ thù lúc tuyên truyền cho binh lính hay đi đầu trong các đoàn biểu tình. Ban tuyên truyền tỉnh uỷ Nghệ An có đồng chí Đặng Chính Kỷ là trưởng ban, trưởng ban tỉnh uỷ Hà Tĩnh là đồng chí Lê Lộc. Mỗi huyện có một ban riêng như đã nói ở trên. Họ vừa là người biên cho các báo, làm thơ, vè...vừa là người tuyên truyền giác ngộ quần chúng như đồng chí Nguyễn Phong sắc, Lê Mao, Lê Viết Thuật, Hoàng Văn Tâm, Lê Xuân Đào...

2. Các hình thức tuyên truyền:

Để tuyên truyền cách mạng vào quần chúng nhân dân, Đảng ta đã sử dụng nhiều hình thức phong phú, đa dạng, vừa công khai vừa bí mật.

a. Hình thức bí mật:

Báo chí là một hình thức tuyên truyền bí mật đặc sắc của các tổ chức Đảng. Báo chí thực sự là một mặt trận rất ác liệt mà ở đó các chiến sỹ cách mạng phải trả bằng máu và trí sáng tạo của mình để hoàn thành sứ mạng vẻ vang của báo chí vô sản mà Lê nin đã vạch ra: Tờ báo không những là người tuyên truyền tập thể và báo chí của Đảng không những hoạt động với tư cách là một cơ quan báo chí mà còn là với tư cách là một tế bào tổ chức.

Nhằm tuyên truyền giác ngộ công nhân và nông dân đấu tranh, các tổ chức của Đảng cộng sản dã in ấn lưu hành bí mật nhiều tờ báo cách mạng.

* Báo chí của Xứ uỷ Trung Kỳ:

Tháng 6/1929, Đông Dương cộng sản Đảng đã phái đồng chí Nguyễn Phong Sắc và Trần Văn Cung vào Nghệ An cùng Võ Mai lập ra Xứ bộ Trung Kỳ. Ban chỉ đạo và cơ quan ấn loát của Xứ uỷ đặt tại Vinh. Tờ báo “Bônsơvích” ra đời nhằm tuyên truyền đường lối chủ trương của Đảng(tháng 7/1929). Đến tháng 8/1929 ra báo Công hội”. tháng 10/1929 ra báo “Công Nông Binh”. Sau hội nghị hợp nhất của Đảng ngày 3/2/1930, đồng chí Nguyễn Phong Sắc chính thức được cử phụ trách Xứ uỷ Trung Kỳ kiêm trực tiếp chỉ đạo phong trào Nghệ An. Từ đó cơ sở Đảng ở Nghệ Tĩnh phát triển mạnh và việc cần thiết của công tác giáo dục truyền thống của Đảng trong đó vai trò của báo chí nổi lên hàng đầu. Đó cũng là cơ sở cho hoạt động báo chí của Đảng ở Nghệ Tĩnh trở nên phong phú và mang nhiều sắc thái.

Xô Viết Nghệ Tĩnh nổ ra, số báo “Người Lao khổ” đầu tiên của Xứ uỷ Trung Kỳ ra mắt. Tên tuổi tờ báo này gắn chặt với cao trào 1930-1931. Nó góp phần trực tiếp chỉ đạo và tổ chức cuộc “Tổng diễn tập” đầu tiên của cách mạng tháng Tám nước ta. Số 2 của tờ báo ra ngày 2/5/1930 đã góp phần cổ vũ phong trào cách mạng tiến lên. “Người Lao khổ” không những được phát hành rộng rãi trong toàn xứ mà còn được tuyên truyền ra khắp toàn quốc; thông báo tình hình đấu tranh và kêu gọi cả nước hưởng ứng. Đến tháng 10/1930, tờ “Người Lao khổ” đổi tên thành “Lao Khổ”. Từ số 25 ra ngày 10/1/1931, tờ “Lao Khổ” lại đổi tên là “ Công Nông Binh”(kỷ niệm Liên hiệp công nông binh Đông Dương, kỷ niệm Bến Thuỷ đấu tranh)

Tháng 6/193, Xứ uỷ Trung Kỳ ra tuyên bố thủ tiêu tờ “Công Nông Binh” và “Tranh đấu”, ra tờ “ Vô sản” làm cơ quan cho Xứ và tờ “Chỉ đạo” để chống lại hoạt đầu chủ nghĩa trong Đảng và sửa lại cách làm việc của Đảng.

* Báo chí của các Tỉnh uỷ và Huyện uỷ:

Mặc dù lưu hành trong các vùng hẹp, có đối tượng và người đọc riêng, nhưng tờ báo của các tỉnh là sự cụ thể hoá công tác chỉ đạo của Đảng . Thực sự là những tế bào tổ chức gắn chặt với những hoạt động cách mạng của quần chúng. Trong Nghị quyết của Trung ương tháng 10/1930 đã lưu ý nhiều đến việc ra những tờ báo địa phương, báo “Sản nghiệp”. Đến tháng 4/1931, Xứ uỷ Trung Kỳ đã ra Nghị quyết nhấn mạnh: Muốn cho báo phong phú về nội dung cách mạng và lôi cuốn người đọc và nhất là làm cho quần chúng nhận diện thấy tờ báo Đảng là tờ báo của mình và duy trì lấy tờ báo thì “ các tỉnh uỷ, huyện uỷ quan trọng phải cốt sức ra báo, tổ chức việc làm báo và khuyến khích cho các chi bộ, nhất là các chi bộ nhà máy phải ra báo sản nghiệp. Phải để cho chi bộ tự viết bài lấy, tự in lấy, tự kiếm tiền duy trì lấy báo” (Văn kiện Đảng bộ Nghệ An, tập II, năm 1971, trang 213).

Báo “Tiến lên” cơ quan tuyên truyền của tỉnh đảng bộ Nghệ An ra đời khoảng tháng 5/1930. Hiện nay còn lại 6 số rải rác từ năm 1931-1932. Đến tháng 5/1933 thay tên “Tiến lên” bằng tờ “Tự cứu”. Khu bộ Vinh có tờ “ Chuông vô sản” ra đời khoảng giữa năm 1931, nhưng đến đầu năm 1932 đổi tên là “Cờ dẫn đạo”. Đến ngày 15/2/1932 (từ số 2) lấy tên là “Sóng cách mạng” ra mỗi tháng 2 kỳ.

Báo “Bước tới” của tỉnh Đảng bộ Hà Tĩnh

Vào cuối năm 1929, tờ báo quần chúng bí mật đầu tiên ở Nghệ An xuất hiện. Tờ “Xích Sinh” cơ quan ngôn luận của Sinh hội Đỏ trường Quốc học Vinh và do đồng chí Nguyễn Phong Sắc trực tiếp chỉ đạo. Đến giữa năm 1930 đổi tên là “Người học trò” và sang năm 1931 đổi tên là “Học sinh”.

Song song với các tờ báo của Xứ uỷ, tỉnh uỷ và các huyện đảng bộ cho in tờ báo cơ quan ngôn luận của huyện mình dùng tuyên truyền cổ động các cấp. Các loại báo của các cấp uỷ Đảng ra đời và được lưu hành rộng rãi: Báo “Tự cứu” của huyện Can Lộc, “Tiếng gọi” của huyện Thạch Hà, “Cổ động” của huyện Đức Thọ, “Bước Tới” của Cẩm Xuyên. Ở Nghệ An, huyện bộ Anh Sơn ra báo “Gương vô sản”, huyện bộ Quỳnh Lưu với báo “Lao động” , báo “Nhà quê” của huyện Thanh Chương, báo “Giác ngộ của huyện Nam Đàn, “Dân nghèo” của huyện Nghi Lộc...

Ngoài ra, các cơ quan ngôn luận của Xứ uỷ, tỉnh uỷ còn in lại các báo của Trung ương như báo “Búa liềm”, “Cờ đỏ”, “Bôn sơ vích” nhằm báo đảm sự chỉ đạo của Trung ương thông qua cơ quan ngôn luận của mình trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn về ấn loát và phát hành. Vì thế các loại báo này đều có chữ “Tỉnh uỷ Nghệ An in lại”. Những tờ báo của Trung ương được phát hành xuống tận địa phương và cũng có một số chi bộ in lại một lần nữa.

Như vậy là trong quá trình vận động cách mạng ngay sau khi Đảng ta mới ra thành lập, báo chí vô sản ở Nghệ Tĩnh đã trở thành một vũ khí sắc bén mà các tổ chức Đảng luôn luôn coi trọng trong việc chỉ đạo và phát huy sức mạnh; xứng đáng với sứ mạng vẻ vang của mình “là những người tuyên truyền, cổ động, tổ chức tập thể” như Lê nin đã từng nói.

* Các tác phẩm, Nghị quyết và truyền đơn của Đảng:

Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, các tác phẩm nhằm tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lê nin, đường lối cách mạng vô sản đã được bí mật chuyển về Việt Nam nói chung và Nghệ Tĩnh nói riêng qua các đường thuỷ bộ. Về đến địa phương, các cấp uỷ Đảng dùng in lại để tuyên truyền sâu rộng trong quảng đại quần chúng. Các tác phẩm như: Bản án chế độ thực dân Pháp, Đường Kách mệnh, Nhật ký chìm tàu, Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản...Nhân dân ta đã bí mật chuyền tay nhau đọc các tác phẩm đó. Nhiều người thuộc lòng nội dung tác phẩm “Nhật ký chìm tàu” của Nguyễn Ái Quốc.

Tại các trường học, học sinh tìm và đặt mua nhiều sách báo từ Pháp để tìm hiểu về chủ nghĩa cộng sản. Lê Lộc, một học sinh Quốc học Vinh (khoá 1926-1929) đã kể rằng: “Con đường cách mạng Việt Nam không thể tiến hành bằng phương pháp cải lương mà bằng phương pháp bạo lực ...không thể dựa vào sự ban ơn của các nước đế quốc luôn luôn muốn thôn tính thuộc địa, mà phải hướng về Nga Xô Viết, một nhà nước công nông đã xoá bỏ ách người bóc lột người. Nhưng bước đi thế nào thì vẫn còn là ẩn số cần phải tìm hiểu thêm. Được biết ở Pháp có nhà xuất bản có rất nhiều sách về chủ nghĩa xã hội...Chúng tôi gửi tiền trước cho nhà xuất bản xã hội đặt mua sách... Chúng tôi nhận được các sách như: “ Triết yếu Mã Khắc Tư, “Cộng sản nhập môn”, “Những bệnh ấu trĩ của chủ nghĩa cộng sản”, “Làm gì”. Các sách này được truyền tay nhau trong đám học sinh”( Đặc san “ 70 năm Quốc học Vinh- Huỳnh Thúc Kháng” năm 1990, tr. 31).

Song song với việc in và phát hành các tác phẩm cách mạng, ra các tờ báo của các cấp bộ Đảng. Các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, Xứ uỷ, Tỉnh uỷ, đều được in thành truyền đơn phân phát xuống tận cơ sở. Thực sự truyền đơn là hình thức sơ khai của báo chí vô sản như Lê nin đã từng nhận định có vai trò rất lớn trong công tác tuyên truyền giác ngộ quần chúng. Đó là những lời hiệu triệu kêu gọi quần chúng bị áp bức đứng lên đấu tranh. Các tổ chức quần chúng như tổng Sinh hội Nghệ An đêm 22/1/1930 rải truyền đơn ở trường Quốc học Vinh kêu gọi học sinh gia nhập Sinh hội Đỏ. Ngày 25/4/1930, tổng Sinh hội kêu gọi học sinh tẩy chay cuộc diễn thuyết của Tổng đốc Nghệ An Hồ Đắc Khải. Truyền đơn của tổng Nông hội, Phụ nữ, Công hội...rải khắp nơi trước và sau các cuộc đấu tranh của nhân dân nhằm phát động và cổ vũ phong trào đấu tranh.

* Băng cờ khẩu hiệu:

Ngơài việc lưu hành báo chí, rải truyền đơn...hình thức tuyên truyền cổ động bằng băng cờ, biểu ngữ được Đảng ta rất quan tâm và có sự chỉ đạo cụ thể cho từng cuộc đấu tranh. Hình thức này có tác động trực tiếp, cổ vũ phong trào, tạo khí thế hừng hực sôi động cho quần chúng, tạo niềm tin cho quần chúng với Đảng. Băng cờ, biểu ngữ thường được treo ở những nơi tập trung quần chúng như đình làng, chợ, giếng nước, ngã ba đường, rạp hát, trại lính...để chuẩn bị cho các ngày lễ kỷ niệm lớn và quần chúng đấu tranh.

b. Hình thức tuyên truyền công khai:

Ngoài phương thức sử dụng báo chí, truyền đơn lưu hành trong điều kiện bí mật, các cấp bộ Đảng còn sử dụng hình thức hoạt động công khai hợp pháp nhằm tuyên truyền tinh thần yêu nước trong quảng đại quần chúng. Hình thức thơ ca truyền miệng ca ngợi cách mạng tháng Mười Nga, ca ngợi tinh thần hy sinh anh dũng cua rngười cách mạng... Khí thế đấu tranh các mạng của quần chúng được thể hiện sôi nổi mãnh liệt:

Kìa Bến Thuỷ đứng dầu dậy trước,
Nọ Thanh Chương tiếp bước tiến lên.
Nam Đàn, Nghi Lộc Hưng Nguyên,
Anh Sơn Hà Tĩnh một phen dậy rồi.
                        (Đặng Chánh Kỷ- bài ca cách mạng)

Người dân thuộc lòng những bài thơ ca ngợi cách mạng tháng Mười Nga, ca ngơi nước Nga Xô Viết. Đó là một thực tế tác động sâu sắc tới quần chúng cách mạng. Nhân dân ta đang sống trong vòng nô lệ của thực dân Pháp và phong kiến tay sai rất vui sướng khi được nghe nói về đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá của Liên Xô:

Có chính phủ công nông
Lên cầm quyền chính trị
Được tự do hội nghị...
Và đời sống kinh tế:
Nào ngô khoai lúa đỗ
Nào hoa quả bốn mùa...
Nuôi những người cô quả
Nuôi những kẻ già nua...
Và văn hoá xã hội:
Lại dạy khắp các sở
Nhân dân đều biết chữ
Cầm sách báo đều hay
Từ thợ thuyền dân cày
Ai ai đều xem được
                   (Trường Văn Lĩnh- Giới thiệu Liên Xô)

Vào năm 1930, để tuyên truyền được sâu rộng trong quần chúng, đồng chí Đặng Chính Kỷ(trưởng ban tuyên truyền tỉnh uỷ Nghệ An) đã sáng tác nhiều bài thơ theo lối “hát dặm” để phổ biến cho nhân dân, những bài thơ này rất dễ thuộc:

Công Nông Binh một phái
Anh em phải đồng tình
Quyết một dạ nhiệt thành
Để cùng nhau chiến đấu
Trận cuối cùng chiến đấu
                 (Tổng tập văn học Việt Nam, tập 31, khoa học XH. 1981, tr. 269)

Để giáo dục tư tưởng cũng như phương pháp hoạt động lúc bấy giờ, người dân thường thuộc lòng bài “Cách mạng huấn điều”:

Thơ từ giấy má,                                Hội nghị phải tính,
Hình ảnh thiếp danh.                      Lối chạy lời thưa.
Chớ để trong mình,                         Cổ bài, bàn cờ,
Khi thông sứ mạng.                        Thường nên dự bị.

Song song với thơ ca tuyên truyền, trong các làn điệu dân ca hò vè, kịch, tuồng... đều mang đậm sức sống cách mạng của người dân Nghệ Tĩnh. Truyền thống chống giặc cứu nước của ông cha trước đây được thể hiện lên sân khấu. Các vở tuồng Trưng Trắc, Trưng Nhị được diễn khắp nơi; để vở diễn thêm sinh động, họ mượn guơm giáo đồ tế khí bằng gỗ của các đình hoặc đền như: Đình Long Ân(Diễn Châu), đền Mượu(Nam Đàn)... Có nhiều làng thành lập tổ văn nghệ của thanh niên như: làng Nguyệt Bổng(huyện Thanh Chương), làng Hữu Biệt (huyện Nam Đàn). Những chiến sỹ trên mặt trận văn nghệ đó sau này trở thành cán bộ nòng cốt của Đảng.

Người cán bộ cách mạng trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng tìm mọi cách để đưa tiếng nói của Đảng đến với quần chúng. Tại các buổi đấu tranh, lễ truy điệu hay phiên chợ, miễn là có từ 10 ngườ trở lên là cán bộ tuyên truyền đứng lên diễn thuyết cho đồng bào nghe. Ngày nay đi qua những di tích còn để lại như Bãi Phú Đầm(Kim Liên, Nam Đàn), Phù Xá(Hưng Nguyên), chợ Cồn(Thanh Chương) như vẫn còn vang vọng đâu đây tiếng kêu gọi đấu tranh của các chị Tôn Thị Quế, Nguyễn Thị Phia, Trần Thị Minh Châu...vai trò của chị em trong phương thức này rất quan trọng. Họ vừa là những người đi chợ hoặc là người tham gia các cuộc đấu tranh đồng thời vừa là cán bộ tuyên truyền cổ động thoắt ẩn, thoắt hiện nhanh nhẹn hoạt bát: như các chị Nguyễn Thị Phia, Tôn Thị Quế, Nguyễn Thị Xân, Nguyễn Thị Thiu, Phan Thị Ngọc Băng, Võ Thị Ngọ, Nguyễn Thị Năm....

Cực lắm rồi chị em ta hỡi!
Đứng mau lên mà cởi trói ra.
...Hô khẩu hiệu cờ hồng đi trước,
Chị em ơi cố bước tiến lên.
Trừ đế quốc cướp chính quyền,
Phá tan áp bức xây nên tự do.
Phụ nữ ta làm cho rõ mặt,
Cùng anh em ta dắt nhau đi...
                                 (Thơ khuyết danh)

Mưa dầm thấm lâu, người dân càng hiểu và tin tưởng hơn về Đảng về cách mạng.

Phong trào đấu tranh của nhân dân Nghệ Tĩnh dưới sự lãnh đạo của Đảng ngày càng lên cao, khiến thực dân Pháp vô cùng hoảng sợ. Chúng tìm mọi cách dìm phong trào vào trong biển máu. Tôn Thất Đàn( Thượng thư Bộ Hình) đã tuyên bố “Hữu Nghệ Tĩnh bất phú, Vô Nghệ Tĩnh bất bần”(có Nghệ Tĩnh không giàu, không có Nghệ Tĩnh không nghèo). Đồn bốt bọn thực dân dựng lên khắp nơi. Ngoài số đồn đã có sẵn từ truớc, đến tháng 2/1931 chúng dựng lên 28 đồn ở Nghệ An, nâng tổng số đồn ở Nghệ Tĩnh lên 60 cái. Bên cạnh đó chúng mở thêm nhà tù, các đồn binh trở thành nơi giam giữ các chiến sỹ cộng sản như: Triệu Dương, Kim Nhan(Anh Sơn), Cửa Rào (Tương Dương), Rạng (Thanh Chương)... Hàng ngàn chiến sỹ cách mạng bị bắt giam và đày đi Kon Tum, Lao Bảo, Ban Mê Thuột, Côn Đảo...Với tinh thần của người cộng sản, vì lý tưởng cách mạng, họ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Các chiến sỹ cách mạng biến nhà tù thành trường học cộng sản. Các lớp học chính trị, quốc ngữ và ngoại ngữ được mở ra trong 4 bức tường nhà lao, lấy nền nhà làm giấy, nước lã làm mực, que tăm làm bút, nhiều người đã miệt mài học tập. Trong chốn lao tù đó, người cốngản vẫn trọn một niềm tin với Đảng:

Ai bảo đề lao chốn thảm sầu,
Ấy trường tranh đấu dạy cùng nhau.
Cho nền tư tưởng càng thêm rộng,
Về mặt tinh thần mãi tiến mau.
Đào tạo nhân tài cho cách mạng,
Trau dồi chiến sỹ lúc binh đao.
Hỡi ai là kẻ vì nhân loại,
Gặp hội chông gai chớ hoạt đầu
                          (Nhà lao cũng là trường học- Khuyết danh).

Trong lao tù, không có giấy bút, các đồng chí cộng sản vẫn xuất bản “Đề lao tuần báo”, “Tiếng nhà pha” và các tác phẩm văn học bằng miệng. Các tiểu thuyết miệng được chuyển thể thành kịch như vở “Giọt máu hồng” của đồng chí Hồ Tùng Mậu được hoan nghênh nhiệt liệt ở nhà lao Vinh năm 1931. Ở lao Kon Tum lập “Tao đàn ngục thất”, thơ ca được sáng tác để ca ngợi tinh thần hy sinh anh dũng của đồng chí mình và tin tuởng vào ngày thắng lợi của cách mạng. Mặt khác, các chi bộ nhà tù cũng được thành lập để chỉ đạo đấu tranh. Chi bộ nhà lao Vinh do Xứ uỷ trực tiếp chỉ đạo. Tại nhà lao Đồng Hới(Quảng Bình) lập chi bộ nhà lao(năm 1932), trong đó Ban Chấp hành gồm 4 tiểu tổ: phụ trách tuyên truyền là đồng chí Võ Thị Ngọ; phụ trách in tài liệu là đồng chí Nguyễn Trung Lục, Đinh Quế; phụ trách binh lính là Trần Mạnh Táo và Bí thư chi bộ là Lê Bá Cảnh; họ in báo “Bước tới” và báo “ Lao khổ” (Theo báo cáo ngày 18/1/1934 của Paul Humbert, chánh cảnh sát đặc biệt gửi chánh cảnh sát và Liêm phóng Trung Kỳ ở Huế).

Sau khi phong trào cách mạng lên cao, chính quyền Xô Viết được thành lập ở nhiều làng xã. Các xã bộ nông đứng ra điều hành công việc ở địa phương. Họ tiến hành cải cách hương thôn, xây dựng một số công trình văn hoá, tuyên truyền đồng bào xoá bỏ hủ tục mê tín lạc hậu, truyền bá chữ quốc ngữ cho nhân dân. Nhân dân trong các làng Xô Viết thực sự sống vui vẻ và hồ hởi.

Phương thức tuyên truyền của Đảng ta thật đa dạng và phong phú. Ngoài ra còn lợi dụng một số báo chí của địch xuất bản như “Tiếng dân”, “Đông Pháp”, “Công luận”... có đưa tin về các cuộc biểu tình của các vùng để tuyên truyền vận động quần chúng vững tin vào Đảng. Công tác tuyên truyền của Đảng ta phát triển mạnh tạo cơ sở vững chắc cho phong trào đấu tranh của nhân dân Nghệ Tĩnh năm 1930-1931. Gac- ni- ê(Garnier) tiểu đoàn trưởng chỉ huy khu Hà Tĩnh đã báo cáo lên Khâm sứ Trung Kỳ ngày 12/6/1931 như sau: “Đảng cộng sản đã có một mảnh đất chuẩn bị sẵn sàng, Đảng đã hoạt động với sự hiểu biết sâu sắc tâm lý dân chúng, theo nội dung chương trình và một phương pháp, biết khai thác tình trạng nghèo khổ của dân chúng, hứa hẹn với họ một cuộc sống hạnh phúc, cổ vũ và động viên tinh thần dân tộc, để sau đó tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản”.

3. Phương pháp ấn loát:

Trong điều kiện hoạt động bí mật vô cùng khó khăn, người cán bộ ấn loát tìm mọi cách để ra các tờ báo đúng kỳ, có chất lượng và đủ để phân phát về cơ sở . Phương pháp ấn hành thủ công là chủ yếu.

a. Phương pháp in thạch:

Trong điều kiện như vậy in thạch vừa đơn giản, nhanh và dễ xoá dấu vết mỗi khi ccó địch. Nguyên liệu in chủ yếu là thạch. Thạch là thứ dùng để giải khát(có sợ như sợi miến được chế từ rong biển). Thạch được nấu đổ vào khay(có thể mâm gỗ hoặc đồng) dàn phẳng để nguội. Lấy tờ truyền đơn hoặc báo úp lên mặt thạch, ta có chữ trái trên khuôn thạch(bản mẫu viết bằng mực, càng đậm mực bao nhiêu thì số lượng in ra càng nhiều bấy nhiêu). Sau đó dùng giấy trắng ép vào khuôn thạch vuốt thẳng, lấy lên được bản in như bản mẫu. Mỗi lần in được khoảng 80 đến 100 tờ. Lúc nào bản in trên thạch nhạt chữ thì phải đổ thạch vào nấu lại và viết bản mẫu khác.

Trong hoàn cảnh hoạt động bí mật nên in tài liệu khó và vật tư cũng khó. Để có được thạch, các cơ sở Đảng phải đi chợ huyện hoặc chợ tỉnh để mua. Nếu không có thạch được chế sẵn thì phải mua cây rong về nấu, tốn thời gian hơn. Những thứ này lúc mua đưa ra khỏi chợ rất khó, phải cải trang khéo mới qua được vòng kiểm soát của địch. Cuối năm 1931, địch khủng bố mạnh tìnhhình hoạt động của Đảng vô cùng khó khăn. Các bộ phận ấn loát phải rút vào rừng sâu như Tràng Ri(Nam Đàn), Vều(Anh Sơn, núi Hồng Lĩnh ...Không có thạch, cán bộ ấn loát phải dùng bột nếp thay. Số lượng tài liệu in một lần được ít hơn. Song cũng đã có tài liệu truyền đơn chuyển về cơ sở để ổn định tinh thần của nhân dân.

b. Phương pháp in li tô:

Ngoài việc in thạch là phổ biến của các cơ sở ấn loát. phương pháp in li tô cũng góp phần quan trọng trong công tác tuyên truyền của Đảng. In kiểu này khó hơn, cán bộ ấn loát phải dùng dao khắc chữ trái lên mặt đá phẳng, sau đó thoa muội đèn dầu hoả lên; lấy giấy trắng đặt vào mặt đá vuốt thẳng, lấy ra sẽ được một bản in. Phương pháp này phức tạp và lâu hơn vì khắc chữ lâu và dùngmột lần là phải bỏ vì nội dung lần sau khác. Tuy nhiên phương pháp này không có thạch vẫn làm được và tiện lợi vì điều kiện trongnúi rừng sẵn đá.

4. Địa bàn hoạt động:

Để vận chuyển được số truyền đơn và báo chí xuống cơ sở, người làm công tác giao thông phải nhanh nhẹn, cải trang thật giỏi. Phần lớn lực lượng giao thông là phụ nữ èa thanh niên trẻ. Họ cải trang làm người đi chợ, buôn hàng tấm, đi chăn trâu cắt cỏ hoặc là thợ cắt tóc hoặc là con gái lấy chồng xa nay về thăm cha mẹ đẻ... Đó là những phụ nữ như Hoàng Thị Tích(HưngNguyên), Mai Thị Đán(Diễn Châu), Lê Cảnh Cải(Thanh Chương), Nguyễn Thị Duệ (Vinh – Bến Thuỷ)...

Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Đảng ta đã nắm vững phương châm đó nên cơ sở Đảng năm 1930-1931 được xây dựng và phát triển triên trong hai tỉnh. Các cơ quan ấn loát được thành lập từ Xứ uỷ đến tận chi bộ. Người cộng sản sử dụng các cơ sở bí mật để làm nơi in tài liệu như: nhà thờ họ Hoàng Trần(Anh Sơn), họ Uông(Lộc Đa, Hưng Nguyên), Nguyễn Như, Lê ban, Nguyễn Đình Kình (Thanh Chương)...Đình, chùa, miếu và các hang ở trong rừng (hang Đá Chồng, Đá Bạc ở Hà Tĩnh .. cũng được sử dụng làm cơ sở ấn loát tài liệu Đảng; Và cũng có lúc in tài liệu tại các nhà giàu có tinh thần cách mạng khiến địch không nghi ngờ. Ngay ở thành phố Vinh, cơ sở ấn loát của Xứ uỷ Trung Kỳ được đặt tại nhà Nguyễn Hữu Diên(làng Yên Dũng Thượng) sau đó dời xuống làng Yên Lưu. Đi đến đâu cơ quan này cũng được nhân dân che chở bảo vệ chu đáo. Mặt khác khu nội trú của học sinh Hà Tĩnh cũng được sử dụng in truyền đơn cộng sản. Theo báo cáo ngày 4/3/1930 của công sứ Pháp ở Hà Tĩnh gửi Khâm sứ Trung Kỳ về việc bắt được truyền đơn và đồ dùng in tài liệu tại nhà trọ của học sinh Lê Bá Cảnh ở Hà Tĩnh. Thậm chí truyền đơn được in ngay trong trường Quốc học Vinh.

Ngoài việc ấn hành các tài liệu truyền đơn báo chí của Xứ uỷ, tỉnh uỷ, các cơ sở còn in lại truyền đơn, nghị quyết của Trung ương kêu gọi các tỉnh ủng hộ Nghệ Tĩnh Đỏ. Đó cũng là nguồn động viên cổ vũ lớn đối với phong trào cách mạng Nghệ Tĩnh. Nhân dân Nghệ Tĩnh thấy được sự “chia lửa” với mình nên vững tin về Đảng về cách mạng.

III. Nội dung công tác tuyên truyền:

1. Tính chiến đấu:

Công tác tuyên truyền cổ động của Đảng nhằm giáo dục đảng viên, quần chúng nhân dân. Sự chỉ đạo của Đảng thông qua nghị quyết từ Trung ương đến địa phương; qua truyền đơn, báo chí vận động nhân dân đứng lên đấu tranh, ca ngợi tinh thần anh dũng của nhân dân. Báo “Người Lao khổ” số ra ngày 2/5/1930, sau khi cuộc biểu tình 1/5 nổ ra- Cuộc tổng bãi công mở đường hừng hực khí thế chiến đấu. Số đặc biệt này với những lời kêu gọi rất cảm động và đanh thép: “ Hỡi anh chị em thợ thuyền, dân cày, binh lính thanh niên học sinh !!! Hỡi anh chị em bị bóc lột đè nén ở An Nam.

Hơn một ngàn anh chị em dân cày và thợ thuyền tuần hành thị uy bữa 1/5 để kỷ niệm ngày Quốc tế lao động. Vì anh chị em đã tỏ thái độ rất dũng cảm và hết sức hy sinh để bênh vực quyền lợi cho tất cả anh chị em thanh niên nên bị bọn đế quốc chủ nghĩa Pháp bắn giết rất hung ác.. Cuộc đấu tranh ở An Nam đã đến ngày phải kịch liệt. Những một người trong anh em, chị em phải chết thì lại có hàng ngàn vạn anh em, chị em khác kế tiếp...Anh em, chị em không thể do dự được nữa. Phải nhớ lấy 6 người bị thảm sát ở Bến Thuỷ. Phải theo gương trước mà hăng hái hy sinh”. Báo chí lúc này đã vạch rõ trách nhiệm của quần chúng là “Phải tranh đấu mới giữ được quyền lợi, chỉ có cách mệnh mới giữ quyền lợi được ! chỉ có khi nào chúng ta cướp được chính quyền và xây dựng chính phủ Xô Viết công nông binh như ở Xô Viết Nga mới thiệt bênh vực cho chúng ta và quyền lợi của chúng ta mới thật vững vàng; Nếu bây giờ thôi tranh đấu thì đế quôc tưởng là mình yếu sức, nó thẳng tay trừng trị” (Báo “Lao khổ” số 17 ngày 5/10/1930).

Không chỉ dừng lại ở việc tường thuật mô tả, những tờ báo của Đảng đã kịp thời tổng hợp tình hình đấu tranh giúp cho công tác chỉ đạo các địa phương được sát sao như bài “ Kết quả của các cuộc biểu tình ở Nghệ An tháng 5 và 6/1930” (Báo “Người Lao khổ” ngày 13/7/1930). Hoặc nhân kỷ niệm một năm vụ tàn sát Hưng Nguyên (12/9/1930), báo “Chỉ đạo” của Xứ uỷ Trung Kỳ, “Tiến lên” của tỉnh uỷ Nghệ An đăng bài để ổn định tình hình và động viên tinh thần nhân dân.

Liên minh công nông là ưu điểm nổi bật trong phong trào đấu tranh ở Nghệ Tĩnh là cơ sở tạo cho chính quyền Xô Viết ra đời ở hai tỉnh. Đánh giá đúng nhân tố đó và sự phối hợp nhịp nhàng của phong trào công nông và công tác binh vận “Người lao khổ” số đặc biệt ngày 6/9/1930 ca ngợi “ Lần đầu tiên mà công nông binh giúp nhau một trận...Tình đoàn kết đó đã phát sinh dưới bóng cờ đỏ...và làm cơ sở cho cuộc cách mạng vô sản sau này”.

Qua thơ văn truyền miệng thời kỳ này, thể hiện tínhchiến đấu của người chiến sỹ cách mạng thật kiên cường bất khuất. Những áng thơ văn được lưu truyền trong nhân dân thật hùng hồn. Ngay cả đến những bài văn tế cũng vậy. Sức mạnh truyền thống dân tộc được nhân lên nhiều với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Người cộng sản ngã xuống với nhận thức đầy đủ: hy sinh vì dân tộc, vì giai cấp vì nhân loại. Họ hiểu rõ vì ai mà chiến đấu, vì ai mà hiến máu. Cho nên những bài văn tế truy điệu khóc thương người chết mà vẫn hào hùng. Người ta tự hào với người đã chết. Trong những dịp này, tình đồng chí, tình bạn, nghĩa đồng bào được bồi dưỡng nâng cao. Người sống phải phải sống như thế nào ? Sống sao cho xứng đáng với người đã khuất, với xóm làng.

Song song với các phương thức tuyên truyền khác, truyền đơn của Đảng cộng sản Việt Nam đã kịp thời phát rộng trong hai tỉnh và cả nước kêu gọi nhân dân ủng hộ công nông Nghệ Tĩnh đấu tranh, kêu gọi kỷ niệm các ngày lễ lớn, tình đoàn kết đấu tranh được thể hiện hơn bao giờ hết.

2. Đấu tranh chống khủng bố:

Làn sóng đấu tranh của nhân dân lên cao, ảnh hưởng của Đảng sâu rộng trong quần chúng, chính vì vậy mà thực dân Pháp dùng khủng bố trắng để tiêu diệt Đảng. Tôn Thất Đàn đề ra chủ trương “cho bàn dân quy thuận với chính phủ”, Nguyễn Hữu Bài( Thượng thư Bộ lại- Viện trưởng Viện Cơ mật), chủ trương “lập hệ thống bang tá từ huyện trở xuống”. Trước tình hình đó, Thường vụ Trung ương ra thông cáo cho các Xứ uỷ ngày 3/1/1931, hướng dẫn cơ sở Đảng phương pháp chống khủng bố trắng: “ Phải bền lòng, phải kiên quyết mà tuyên truyền cổ động và tổ chức tranh đấu... bây giờ chúng ta phải xoay hướng về chính trị tranh đấu...phải tổ chức đội tự vệ”.

Ngày 25/1/1931 Thông báo hướng dẫn nhân dân chống đầu thú của Thường vụ Trung ương đã ổn định được tư tưởng cho nhân dân. Kỳ bộ Trung Kỳ ra khẩu hiệu: “Treo cờ đỏ, bỏ cờ trắng, không cờ vàng”. Để giáo dục quần chúng không được tự động, phải biết chờ thời cơ, chờ mệnh lệnh của tổ chức Đảng. Ban tuyên truyền tỉnh uỷ Nghệ An đã phổ biến miệng bài thơ khẳng định thắng lợi của phong trào và uốn nắn những chủ trưong lệch lạc:

Nay chưa phải cái trường chinh chiến,
Phải tính cho lợi tiện đôi đường.
Chớ nên tự động làm càn,
Khó khăn cho Đảng, phá tan phong trào
                                 (Tổng tập văn học, Tr. 343)

Truyền đơn của Đảng Cộng sản, báo “Công nông binh” số ra ngày 10/01/1931 ra lời kêu gọi nhân dân đấu tranh chống khủng bố sau vụ giết tri huyệ Nghi Lộc. Báo “Chỉ đạo” ra ngày 17/8/1931 đã nói rõ: “Chúng ta bây giờ đang ở vào lúc đế quốc thẳng tay khủng bố, lại vừa lúc quần chúng đã mệt. Trong thời kỳ đặc biệt này, phải hết sức mở rộng tuyên truyền và tranh đấu để lấy lại tinh thần quần chúng”.

Khi bị kẻ thù đàn áp dữ dội, phong trào phải tạm chuyển hướng và lắng xuống thì truyền đơn và báo chí cùng các hình thức tuyên truyền khác đã góp phần cổ vũ đảng viên và quần chúng giữ vững ý chí, nhanh chóng chuyển hướng đấu tranh: “Ngày nay không biểu tình, không bãi công, không phải vì sợ khủng bố của đế quốc mà khiếp nhược đâu, những thật ra chính sách của Đảng bây giờ là phải xoay về bí mật để chấn chỉnh nội bộ cho vững vàng thêm, khuyếch trương thế lực cho vững vàng thêm để dự bị cuộc đấu tranh rất cao về sau”(báo “Sóng cách mệnh”, số 2 ngày 15/3/1932)

3. Tính tổ chức:

Truyền đơn báo chí của Đảng đã kêu gọi phong trào công nông các tỉnh ủng hộ Nghệ Tĩnh, kêu gọi tinh thần đoàn kết quốc tế, nhân dân yêu chuộng hoà bình Pháp ủng hộ cách mạng Đông Dương. Ngoài ra trong công tác tổ chức, thông qua tuyên truyền hướng dẫn thanh niên, tự vệ, phụ nữ, nông hội, đồng tử quân đấu tranh, xây dựng tổ chức của giới vững mạnh. Rút kinh nghiệm trong cuộc bạo động non, thanh đảng; Thường vụ Trung ương có chỉ thị về vấn đề thanh đảng của Xứ uỷ Trung Kỳ (ngày 20/5/1931) của nhằm uốn nắn sai lầm, phê phán những biện pháp mạnh động trước âm mưu khiêu khích của kẻ thù. Đảng đã phê phán kịp thời những khuynh hướng cải lương tư sản của một số nhà yêu nước có tư tưởng ôn hoà cải lương. Tiêu biểu là cụ Huỳnh Thúc Kháng và báo “Tiếng dân”. Sự phê phán này là hết sức cần thiết đặc biệt là đối với những quan điểm sai lầm có hại cho phong trào cách mạng. Tờ “Xích Sinh” ngày 15/1/1930 có bài chất vấn chủ bút báo “Tiếng dân”. Báo ”Vô sản” số tháng 10/1930 phản đối Bùi Quang Chiêu kêu gọi đánh đổ Đảng Lý nhân, Lập Hiến, đã vạch trần âm mưu mị dân của bọn đế quốc. Báo “Vô sản” ngày 29/7/1931 đã viết: “Ôi xảo quyệt thay là quân giặc Pháp, nguy hại thay là chính sách cải lương! Chúng ta phải đả đảo chính sách cải lương, để gỡ cái mặt nạ, xỏ lá của đế quốc Pháp và tôi tớ trung thành của nó”. Báo “Tiến lên” ngày 20/8/1931 với bài “Chính sách cải lương là một lợi hại khí rất độc hại của đế quốc chủ nghĩa Pháp phá cách mạng”; bài “Cách mệnh và cải lương” của báo “Sóng cách mệnh” số 2 ngày 25/3/1931.

4. Vấn đề uốn nắn tư tưởng:

Ngoài việc uốn nắn những sai lầm trong đấu tranh mà qua công tác tuyên truyền Đảng ta còn đi sâu vào những ấn đề cụ thể, sát với sinh hoạt hàng ngày của đảng viên. Tờ “Lao động” của huyện bộ Quỳnh Lưu ngày 13/9/1931 đăng tin huyện bộ quyết định khai trừ 2 đảng viên phạm khuyết điểm trong sinh hoạt. Quan điểm về tính tổ chức và kỷ luật của Đảng nhằm bảo đảm sự trong sạch và uy tín tuyệt đối với quần chúng thông qua vụ kỷ luật. Việc thi hành kỷ luật Đảng nhằm để giáo dục đảng viên. Án nghị quyết của tỉnh uỷ Nghệ An(Hội nghị ngày 29/1/1932) đã viết rõ: “ Tỉnh uỷ có 5 người(3 thường vụ 2 hội viên). Song có đồng chí Tá có tư tưởng bậy bạ, làm mất tín nhiệm Đảng. Nên Tỉnh uỷ quyết nghị hạ tầng công tác để ra ngoài cơ quan chỉ huy”(Văn kiện Đảng bộ Nghệ An tập 2, tr. 311)

Một nội dung khác không kém phần quan trọng trong công tác tư tưởng là : giáo dục chủ nghĩa Mác – Lê nin, xây dựng Đảng, nâng cao trình độ giác ngộ cho đảng iên. Án nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 2 (tháng 3/1932) đã đề ra nhiệm vụ: “Đào tạo ra một nền tư tưởng Bôn sơ vích là một việc rất quan trọng, bởi vậy Bộ Cổ động tuyên truyền phải đặc biệt chú ý về việc ấy...phải huấn luyện đảng viên và quần chúng vô sản theo tình thần chủ nghĩa Mác - Lê nin theo con đường chính trị đúng của Quốc tế cộng sản và của Đảng ta” (Văn kiện Đảng bộ Nghệ An tập 2, tr. 193-194).

Nghị quyết của trung ương đã được cụ thể hoá qua các bài viết của các báo Tỉnh uỷ. Báo “Tiến lên” (ngày 12/3/1932), “Sóng cách mệnh” (ngày 15/3/1932), truyên đơn của Đảng cộng sản... đều viết về Lê nin về cách mạng tháng Mười Nga, kỷ niệm Quảng Châu công xã, công xã Pa ri...làm cho quần chúng hiểu được ý nghĩa các ngày truyền thống và nó gắn chặt vào thực tế cách mạng nước ta qua những khẩu hiệu đấu tranh cụ thể. Mặt khác việc tuyên truyền còn có tính chất giáo dục sâu sắc cho đảng viên và quần chúng trong quan hệ bạn bè đồng chí.

Tóm lại: nội dung tuyên truyền rất đa dạng, phong phú mang đầy đủ tính chất giáo dục, định hướng đấu tranh chống lại thực dân Pháp và tay sai. Đây là một công việc hết sức quan trọng của Đảng trong việc thu phục quần chúng cách mạng. Sự cổ động tuyên truyền có tổ chức, có kế hoạch đúng, chuyên cần là một điều kiện quan trọng để tiến hành các công tác khác của Đảng trong quần chúng. Xây dựng được mặt trận thống nhất, xây dựng Đảng vững mạnh, nâng cao trình độ lý luận cho đảng viên đào tạo thêm cán bộ cho Đảng.

Trong phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam nói chung và nhân dân Nghệ Tĩnh nói riêng năm 1930-1931, với điều kiện Đảng ta mới ra đời, phong trào cách mạng lên cao, nhưng sự tương quan lực lượng giữa ta và địch quá chênh lệch. Công tác tuyên truyền của Đảng trong quảng đại quần chúng có một tầm quan trọng đặc biệt. Nó đã tập trung được lực lượng quần chúng cách mạng xung quanh Đảng. Xây dựng nòng cốt liên minh công nông vững chắc, động lực chính của cách mạng vô sản. Thông qua tuyên truyền cổ động, từng bước giáo dục và nâng cao trình độ lý luận cho đảng viên và quần chúng cách mạng. Nâng cao vai trò của Đảng về công tác tư tưởng và tổ chức.

Trong điều kiện Đảng Cộng sản mới ra đời, còn hạn chế về nhiều mặt. Công tác tuyên truyền cổ động còn nhiều khiểm khuyết, hoạt động bí mật, sự cổ động tuyên truyền trong vùng nhỏ hẹp. Báo chí còn ít, không có người viết chuyên sâu, chưa đề cập đến đời sống khổ cực của người lao động. Vì vậy , việc đạt được những thành qủa trên là một thắng lợi lớn của Đảng, góp phần đưa Cách mạng đi lên.

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, đất nước ta ngày càng phát triển về mọi mặt. Công tác tuyên truyền của Đảng ta có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết. đấu ởanh chống đa nguyên, đa đảng, thói hư tật xấu; đấu tranh để giữ gìn và phát huy giá trị bản sắc văn hoá dân tộc là một việc làm cần thiết đối với mọi ngành khoa học. Đặc biệt là trên mặt trận báo chí, văn hoá văn nghệ, và các tổ chức quần chúng phải luôn luôn nắm vững lập trường chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đấu tranh để xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường và giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc trên thế giới.

Lê Thị Hạnh Phúc- Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh

Video