112
260
3451
20966
20962
6850373
Đồng chí Chu Văn Biên sinh ngày 15/10/1912 tại xã Tràng Thành, nay là xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo nhưng có truyền thống yêu nước và cách mạng. Ngay từ thời niên thiếu Chu Văn Biên được nghe những câu chuyện của các thủ lĩnh phong trào Văn Thân, Cần Vương chống Pháp như: Nguyễn Xuân Ôn, Lê Doãn Nhã, Nguyễn Văn Ngợi và cuộc khởi nghĩa của Chu Trạc- người bác họ cùng làng. Từ đó hun đúc nên tinh thần và khí phách của người thanh niên yêu nước Chu Văn Biên.
Thuở nhỏ Chu Văn Biên được học chữ Hán ở trường làng, về sau chuyển sang học chữ quốc ngữ tại trường tiểu học Yên Thành. Vốn thông minh nên sau khi tốt nghiệp tiểu học, Chu Văn Biên thi đậu vào trường Quốc học Vinh đạt loại giỏi.
Vào học tại trường Quốc học Vinh giữa lúc phong trào yêu nước của tri thức, học sinh do Hội Phục Việt phát động đang phát triển mạnh. Cuối năm 1926, Chu Văn Biên gia nhập Hội Phục Việt và hoạt động tích cực trong chi hội Phục Việt trường Quốc học Vinh. Trong thời gian này, tranh thủ những ngày nghỉ, Chu Văn Biên liên hệ với đồng chí Phan Đăng Lưu về Yên Thành xây dựng cơ sở ở các xã : Tràng Thành, Kim Thành, Giai Lạc, Bút Trận, Cự Phú, Công Trung.
Tháng 9/1929 các tổ chức tiền thân của Đảng ra đời, các chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ỏ Vinh, Diễn Châu, Anh Sơn…Chu Văn Biên được đồng chí Nguyễn Phong Sắc, cán bộ lãnh đạo của Kỳ bộ Trung Kỳ giới thiệu và kết nạp vào Đông Dương Cộng sản Đảng tại Chi bộ trường Quốc học Vinh.
Đầu năm 1930, Chu Văn Biên được bổ sung vào Xứ uỷ Trung Kỳ, phụ trách công tác tuyên truyền. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đồng chí Nguyễn Phong Sắc- Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Xứ uỷ Trung Kỳ, Chu Văn Biên đã bám sát các mũi đấu tranh của quần chúng ở Trường Thi- Bến Thuỷ và những vùng nông thôn như Hưng Nguyên, Nam Đàn.
Cuối năm 1931, phong trào xô Viết Nghệ Tĩnh bị địch đàn áp khốc liệt, Chu Văn Biên bị bắt giam vào nhà lao Vinh, bị kết án 7 năm tù khổ sai. Năm 1932, Chu Văn Biên bị đày đi nhà tù Lao Bảo. Tại đây đồng chí đã cùng với tù chính trị tổ chức thành lập chi bộ Đảng. Trong tù đồng chí không ngừng học tập lý luận cách mạng, giáo dục, giác ngộ quần chúng, tổ chức đấu tranh tuyệt thực, phản đối chế độ hà khắc của nhà tù Lao Bảo. Kẻ địch đã xếp Chu Văn Biên vào loại tù nguy hiểm, sau đó tăng lên khổ sai chung thân và đày lên Buôn Ma Thuột.
Tại đây, Chu Văn Biên bắt liên lạc được với đồng chí Phan Đăng Lưu, tiếp tục đấu tranh với bọn cai ngục, đồng chí đã cung cấp cho Phan Đăng Lưu nhiều tư liệu quý về nhà đày Lao Bảo, công khai tố cáo chế độ hà khắc của nhà tù đế quốc.
Năm 1943, Chu Văn Biên được trả tự do. Ngay sau khi ra tù đồng chí đã bắt liên lạc với đồng chí Tố Hữu, Nguyễn Xuân Linh và các cựu tù chính trị khác chuẩn bị khôi phục phong trào gây dựng cơ sở cách mạng.
Ngày 19/5/1945, hội nghị thành lập Ban vận động Việt Minh liên tỉnh được tổ chức tại nhà ông Mười Uyển ở Thành phố Vinh, Chu Văn Biên được bầu làm Uỷ viên và được phân công chỉ đạo khởi nghĩa giành chính quyền ở Vinh và các huyện phía bắc Nghệ An. Ngày 21/8/1945, khởi nghĩa giành chính quyền ở thành phố Vinh thắng lợi, Chu Văn Biên được bầu vào Uỷ ban cách mạng lâm thời tỉnh Nghệ An.
Sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, Đồng chí Chu Văn Biên là đại biểu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khoá đầu tiên, được Đảng và Nhà nước giao phó những nhiệm vụ quan trọng: Chính uỷ Mặt trận Bình-Trị-Thiên, Chủ nhiệm khu uỷ Liên khu 4. Đồng chí trực tiếp cùng các đồng chí trong Liên khu 4 chỉ đạo xây dựng Liên Khu 4 thành địa bàn chiến lược quan trọng, trở thành hậu phương vững chắc trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước.
Sau năm 1954, Chu Văn Biên là Bí thu Đảng uỷ, Phó chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Kỹ thuật , Thứ trưởng, Phó chủ nhiệm Uỷ ban Nông nghiệp . Dù ở cương vị nào đồng chí đều chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học cho nông nghiệp, quyết tâm đem khoa học kỹ thuật giải phóng sức lao động cho bà con nông dân.
Năm 1972, đồng chí được cử làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà tại Ấn Độ, kiêm nhiệm Bănladét và Sri Lanka. Với tư cách là người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao của Nhà nước, đồng chí đã kêu gọi nhân dân thế giới ủng hộ, giúp đỡ cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam. Nhiều bạn bè quốc tế và trong nước thường nhắc đến đồng chí Chu Văn Biên như một nhà ngoại giao tâm huyết, giản dị và khiêm nhường.
Là cán bộ “thế hệ vàng” từ những ngày đầu thành lập Đảng, trải qua hơn 70 năm hoạt động, đồng chí Chu Văn Biên đã có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Dù ở cương vị nào, trong ngục tù đế quốc hay trên mặt trận kinh tế,quân sự, ngoại giao, đồng chí luôn giữ vững niềm tin vào sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Ghi nhận và tôn vinh những cống hiến của đồng chí Chu Văn Biên đối với sự nghiệp cách mạng. Đảng và Nhà nước đã tặng thưởng đồng chí nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng.
Ngày 9/2/2006, đồng chí Chu Văn Biên tạ thế tại Hà Nội. Đảng và Nhà nước đã tổ chức lễ tang trọng thể do đồng chí Nguyễn Tấn Dũng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ làm trưởng ban lễ tang.
Đồng chí Chu Văn Biên qua đời nhưng hình ảnh của người chiến sỹ cộng sản kiên cường, người cán bộ lão thành luôn tâm huyết với quê hương đất nước, vẫn sống mãi trong lòng mỗi người dân Việt Nam.