296
769
3000
9730
20962
6839137
Lịch sử Việt Nam thế kỷ XX gắn liền với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhiều vĩ nhân khác, trong đó có Chủ tịch Tôn Đức Thắng. Cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Tôn Đức Thắng từ một công nhân, lính thợ đến tổ chức đấu tranh cách mạng, từ ngục tù Côn Đảo đến tham gia kháng chiến, và trải qua các chức vụ quan trọng trong bộ máy lãnh đạo Đảng, Nhà nước, cho đến khi làm Chủ tịch nước, Bác luôn luôn toát lên sự khiêm tốn, giản dị của một một tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định rằng: "... Di sản quý nhất mà đồng chí Tôn Đức Thắng để lại cho nhân dân là chất người Tôn Đức Thắng, sản phẩm tổng hợp của chất hào hiệp Nam Bộ, chất kiên cường và tài năng sáng tạo Việt Nam, chất tiên phong của giai cấp công nhân, chất cách mạng của người yêu nước, người cộng sản, chất nhân đạo của con người. Tinh tuý của chất ấy là lòng thương nước, yêu dân, niềm ưu ái với đồng bào, đồng chí; niềm tin sắt đá vào thắng lợi của cách mạng mặc dù mọi khó khăn, gian khổ, tinh thần một lòng, một dạ phục vụ nhân dân, đức chí công vô tư quên mình, sự khiêm tốn, giản dị hồn nhiên, trong sáng".
Đồng chí Tôn Đức Thắng bí danh là Thoại Sơn, nhân dân ta quen gọi thân mật là Bác Tôn, sinh ngày 20 tháng 8 năm 1888, trong một gia đình nông dân tại Cù lao Ông Hổ, làng An Hòa, tổng Định Thành, hạt Long Xuyên (nay là xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang). Thân phụ là cụ Tôn Văn Đề, thân mẫu là cụ Nguyện Thị Dị, đều là những người nông dân cần cù, hiền lành chất phác. Đồng chí Tôn Đức Thắng là con trai đầu lòng cùng một em trai và hai em gái.
Thời thơ ấu, Tôn Đức Thắng được gia đình cho học chữ Nho, chữ quốc ngữ và chữ Pháp. Sau khi tốt nghiệp tiểu học ở trường tỉnh Long Xuyên (năm 1906), Tôn Đức Thắng rời quê hương để vào học trường Bá Nghệ - Sài Gòn. Trường Bá Nghệ Sài Gòn trước là trường Cơ khí Á Châu chuyên đào tạo những người thợ, Tôn Đức Thắng đã trở thành học trò của trường và không ngừng mệt mài học tập. Nhờ sự gần gũi với đông đảo công nhân lao động, Tôn Đức Thắng đã nhìn ra sức mạnh của họ, tận mắt nhìn thấy người lao động bị bóc lột thậm tệ, nhân dân bị đàn áp dã man. Người học trò trường Cơ khí Á Châu đã trở thành nòng cốt trong các cuộc bãi công lớn, nhỏ của anh em thợ thuyền. Năm 1912, Tôn Đức Thắng đã tham gia lãnh đạo cuộc bãi công của công nhân Ba Son và vận động học sinh của trường bãi khóa. Thắng lợi của cuộc đấu tranh bãi công đó đã tiếp thêm niềm tin cho Tôn Đức Thắng vào sức mạnh của giai cấp công nhân , đem lại những kinh nghiệm bước đầu trong việc vận động đoàn kết, tập hợp công nhân chống lại bọn tư bản thực dân.
Năm 1916, với vốn tiếng Pháp đã học ở trường và tay thợ khá, Tôn Đức Thắng được tiếp nhận vào hải quân Pháp, làm việc trên chiến hạm France. Tại đây, Tôn Đức Thắng đã tham gia vào sự kiện kéo cờ đỏ để ủng hộ cách mạng Tháng Mười Nga trên chiến hạm France ở Biển Đen vào ngày 20/4/1919, sau đó bị trục xuất khỏi nước Pháp.
Năm 1920, trở về Sài Gòn, Tôn Đức Thắng xin vào làm việc ở xưởng Ba Son. Ba Son là cơ sở sửa chữa tàu khá lớn của hải quân Pháp, nằm bên bờ sông Sài Gòn, trang bị nhiều máy móc từ Pháp đưa sang. Tôn Đức Thắng lại trở về phong trào công nhân Sài Gòn, lập tức xây dựng cơ sở các công hội đỏ, phát động phong trào công nhân đấu tranh đòi dân sinh dân chủ. Tôn Đức Thắng đã vận động những người có cùng chí hướng thành lập Công hội bí mật – hình thức tổ chức đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam. Sự kiện này đánh dấu sự chuyển biến mới của giai cấp công nhân nước ta từ thời kỳ chưa có tổ chức sang thời kỳ có tổ chức. Dưới sự lãnh đạo của Công hội mà đồng chí Tôn Đức Thắng là Hội Trưởng phong trào công nhân Sài Sòn - Chợ Lớn phát triển mạnh mẽ, tiêu biểu là cuộc bãi công của công nhân ở Ba Son, tháng 8 năm 1925.
Năm 1927, đồng chí Tôn Đức Thắng được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên – tổ chức tiền thân của Đảng. Cũng trong năm đó, đồng chí được cử làm Ủy viên Ban Chấp hành Kỳ bộ, Bí thư Thành bộ Sài Gòn.
Thực dân Pháp đã phát hiện vai trò của Tôn Đức Thắng ở Ba Son trong phong trào công nhân Sài Gòn, tháng 7/1929, dựa vào việc đảm bảo an ninh, chúng đã bắt giam đồng chí ở Khám Lớn ( Sài Gòn), sau đó kết án 20 năm khổ sai, tháng 7/1930 đày ra Côn Đảo. Côn Đảo được thực dân Pháp lập nên ngay sau khi xâm chiếm nước ta, là nơi giam giữ và giết hại hàng ngàn tù nhân, trong đó phần lớn là tù chính trị. Tôn Đức Thắng đã bị giam ở Côn Đảo cùng nhiều lãnh tụ cách mạng Việt Nam, như Lê Hồng Phong, Lê Duẩn, Phạm Hùng, Lê Văn Lương…. Ông đã cùng một số đồng chí vận động thành lập Chi bộ cộng sản ở nhà tù Côn Đảo và trở thành một trong những Chi ủy viên đầu tiên. Chi bộ đã tổ chức nhiều lớp học ở trong nhà tù: lớp chính trị giáo dục cho anh em tù nắm vững chủ nghĩa Mác Lênin, lớp học văn hóa hỗ trợ kiến thức chung cho người tù,… để khi ra tù trở thành những người có ích cho cách mạng.
Ngày 23/9/1945, từ Côn Đảo trở về, ngày 15/10/1945, đồng chí được bầu vào Xứ ủy Nam Kỳ, phụ trách Ủy ban kháng chiến chỉ huy các lực lượng vũ trang Nam Bộ. Tháng 12/1945, Ủy ban kháng chiến Miền Nam Việt nam và các khu 7, 8, 9 được thành lập, đồng chí phụ trách tổ chức hậu cần.
Ngày 06/01/1946, trong cuộc tổng tuyển cử đầu tiên, đồng chí được nhân dân Sài Gòn – Chợ Lớn bầu làm đại biểu Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tháng 2/1946, đồng chí được điều động ra Hà Nội để cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng chỉ đạo cuộc kháng chiến, kiến quốc. Đồng chí Tôn Đức Thắng cùng Quốc hội thông qua nhiều văn kiện quan trọng mở đường cho nhân dân ta vừa xây dựng đất nước vừa chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Trước tình hình Quốc dân Đảng và Tưởng Giới Thạch gây rối ở miền Bắc, trong lúc thực dân Pháp đang âm mưu trở lại nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương hòa hoãn với Pháp để đuổi quân Tưởng. Quốc hội quyết định cử một đoàn đại biểu thăm Pháp để tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân Pháp. Đồng chí Phạm Văn Đồng được cử làm Trưởng đoàn. Bác Tôn làm phó trưởng đoàn – người thủy thủ chiến hạm France đã trở thành người đứng đầu Quốc hội Việt Nam đến thăm nước Pháp. Thế nhưng, thực dân Pháp lật lọng không từ bỏ âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa, Hà Nội cùng cả nước nổ súng kháng chiến, Bác Hồ, Tôn Đức Thắng và các vị lãnh đạo phải rời Hà Nội lên Việt Bắc xây dựng chiến khu kháng chiến. Tuy tuổi đã gần 60, đồng chí cố gắng khắc phục khó khăn cùng Bác Hồ và Trung ương Đảng chỉ đạo cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc.
Tháng 4/1947, đồng chí Tôn Đức Thắng được giao đảm nhiệm chức Tổng thanh tra Chính phủ, quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Tháng 01/1948, Hội nghị Trung ương Đảng đã bầu đồng chí vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được cử làm Trưởng Ban vận động thi đua ái quốc Trung ương. Năm 1950, đồng chí được bầu làm Chủ tịch Hội hữu nghị Việt – Xô; Chủ tịch Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (1951). Tháng 9/1955, đồng chí được phân công giữ chức Trưởng Ban Thường trực Quốc hội. Tại Đại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất toàn quốc, đồng chí được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Ngày 15/7/1960, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nhất trí bầu đồng chí Tôn Đức Thắng làm Phó Chủ tịch nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Tôn Đức Thắng luôn sát cánh bên nhau, thể hiện sự đoàn kết dân tộc, thể hiện sự quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ cao quý mà dân tộc giao phó.
Ngày 2/9/1969, sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, tại kỳ họp đặc biệt Quốc hội khóa III, đồng chí Tôn Đức Thắng được bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Năm 1976, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VI – Quốc hội nước Việt Nam thống nhất, đồng chí được bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Ngày 30/3/1980, Bác Tôn từ trần vì tuổi cao sức yếu.
Trên 60 năm cống hiến cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đồng chí Tôn Đức Thắng vinh dự là người đầu tiên được Quốc hội và Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng Huân chương sao vàng – Huân chương cao quý nhất của Nhà nước ta, Huân chương Lê-nin của nước Nga Xô Viết, Huân chương cao quý của nước Mông Cổ, Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Cu Ba trao tặng Huân chương Hữu nghị Cu Ba và nhiều phần thưởng cao quý khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng: Suốt đời cần kiệm liêm chính, suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”.
Lịch sử Việt Nam hôm nay và mai sau sẽ mãi nhắc tới một cái tên thân thiết với lòng biết ơn và sự kính phục sâu sắc: Chủ tịch Tôn Đức Thắng - Bác Tôn.